Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Bằng thương chiếc áo vá quàng cũng thương

Quàng còn đồng nghĩa chỉ việc làm nào đó cốt cho nhanh, vội vã, sơ sài cho xong; hoặc làm việc gì đó bất chấp đúng sai, làm quàng nói xiên. Tục ngữ có câu: Sứt mang xỏ quàng con mắt. Vậy quàng trong ngữ cảnh này thế nào? Là chỉ việc làm cẩu thả, làm càn, không thể chấp nhận được. Mang ở đây đích thị là mang cá. Cá đã sứt/ mất/ xổ mang nên mới làm việc quàng xiên, bất chấp đúng sai là xỏ dây xuyên qua con mắt để dễ xách đi.

Cách lý giải này hài hòa và hợp lý chăng ?” Từ điển tục ngữ Việt ” ( NXB Tổng hợp TP TP HCM – 2010 ) của Nguyễn Đức Dương cũng lý giải : ” Cá hễ bị sứt mang thì cứ việc xỏ quàng qua mắt mà xách. Hay dùng để khuyên mọi người hãy ứng phó linh động với mọi tình thế cho dễ bề vượt qua mọi bất lợi ” ( tr. 773 ). Tuy nhiên, lại có cách lý giải khác : ” mang ” của ngữ cảnh này không riêng gì mang cá mà còn chính là mang trong ” mối mang ” – điểm xuất phát tiên phong, hoàn toàn có thể lần theo đó tìm ra hàng loạt vấn đề. Hiểu theo nghĩa này, nhà tự điển Huình Tịnh Paulus Của mới lý giải theo nghĩa bóng : ” Việc tra không ra mối, bắt không đặng đứa gian, nhiều người hay thao tác bắt quở “. Bắt quở là bắt oan. Rõ ràng cùng một câu tục ngữ nhưng không phải ai cũng nghĩ như nhau .

Với từ quàng, đôi lúc người ta còn dùng từ na ná, chẳng hạn quàng chân lên cổ/ vắt chân lên cổ – nhằm chỉ hành động chạy nhanh, chạy miết, chạy sốt vó, rướn hết sức mà chạy. Thêm một điều thú vị, nếu “Việt Nam từ điển” (1970) in tại miền Nam ghi “vá quàn” thì “Từ điển tiếng Việt” (1977) ngoài Bắc lại ghi “vá quàng”. Vá quàng hợp lý hơn, có thể tìm thấy trong “Đại từ điển tiếng Việt” (1999). Tuy nhiên, “Phương ngữ Nam Bộ” (2015) vẫn ghi nhận vá quàn, không khác gì thời “Đại Nam quấc âm tự vị”.

Từ vá quàng này còn lưu lại trong ca dao : ” Thương em từ thuở áo mới may / Bây giờ áo rách nát thay tay vá quàng “, ” Không thương dẫu có đeo vàng / Bằng thương chiếc áo vá quàng cũng thương “. Dân ca Nam Bộ còn có hẳn bài lý ” Áo vá quàng “. Áo vá quàng là vá nơi đã rách nát bằng loại vải khác ; chưa chắc đã cùng màu, cùng loại, mới cũ khác nhau ; vá không ngay ngắn, thích mắt ; còn nhằm mục đích chỉ áo xấu, vá chằng vá đụp của con nhà nghèo. Cái sự vá / vá víu tùy nghi này dẫn đến sắc tố khác nhau ; khi sử dụng cho loài vật mà lông không toàn sắc, người Việt cũng dùng từ vá như mèo vá, chó vá …Với từ vá, ta hiểu là phủ lên chỗ rách nát, chỗ thủng và gắn chặt lại cho lành lặn. Những đồ vật sắt kẽm kim loại như thiếc, sắt, đồng nọ kia, thường thì người ta vẫn dùng từ hàn hơn là từ vá như đã dành cho những loại vải – dù vá / hàn đồng nghĩa tương quan. Mà vá đích thị còn đồng âm chỉ cái muỗng lớn dùng để múc cơm, canh nhưng ngoài Bắc lại gọi là cái muôi, còn muỗng thì gọi là cái thìa …

Exit mobile version