Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục – Thơ Hai-cư – Ba-sô – Văn 10

Lựa chọn câu để xem giải thuật nhanh hơn- Cảm thức về sự hội ngộ giữa cái đẹp và tính giản dị và đơn giản, tâm hồn và vạn vật thiên nhiên, tính chất phác, mộc mạc và cái sâu thẳm, tuyệt diệu .- Cảm thức cô tịch, đơn độc nhưng là ” niềm đơn độc huy hoàng ” ; là cảm thức của sự tĩnh mịch tuyệt đối .

– Ông mất ở Ô-sa-ka khi mới 50 tuổi.

– 10 năm cuối đời, ông đi khắp quốc gia viết du ký và làm thơ Hai Cư .- Khoảng năm 28 tuổi chuyển đến Ê-đô ( Tô-ki-ô ) sống và sáng tác thơ Hai-cư với bút danh Ba-sô ( Ba Tiêu ) .- Ba-sô ( 1644 – 1694 ) tên thật là Masuo Bashô ( Tùng Vĩ Ba Tiêu ) là một nhà thơ nổi tiếng của văn học Nhật Bản .

II. Tác phẩm

1. Tìm hiểu chung

a. Đặc điểm thơ Hai cư

* Thể thơ:

– Hai cư là một thể thơ truyền thống lịch sử độc lạ của Nhật Bản ( thi quốc ), được hình thành từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ XVII có những thành tựu điển hình nổi bật .
– Hình thức : thơ Hai cư thuộc loại ngắn nhất quốc tế ( cả bài chỉ 17 âm tiết, ngắt thành 3 đoạn 5-7-5 ). Nguyên bản tiếng Nhật chỉ có một câu thơ .
+ Dòng 1 : ra mắt .
+ Dòng 2 : Tiếp tục ý trên và sẵn sàng chuẩn bị cho dòng 3 .
+ Dòng 3 : Ý thơ kết lại nhưng không rõ ràng, mở ra những suy ngẫm, xúc cảm cho người đọc ngân nga, lan tỏa .

* Nội dung:

– Phản ánh tâm hồn người Nhật – tâm hồn ưa thích hòa nhập với vạn vật thiên nhiên, vì thế nội dung thường hướng đên một cảnh sắc, một vài sự vật đơn cử, một tứ thơ, một cảm hứng, một suy tư … của người viết .
– Tứ thơ : khơi gợi xúc cảm, suy tư trong một khoảnh khắc hiện tại ( quy tắc sử dụng ” quý ngữ )
Ví dụ :
Mùa Thu : Mùa Sương – Chiều Thu – Gió Thu .
Mùa Hè : Chim Đỗ Quyên, Tiếng Ve
Mùa Xuân : Hoa anh đào .
=> Đó là thời gian hiện tại, cảnh trước mắt, sự gắn bó thâm thúy của con người với vạn vật thiên nhiên .

* Nghệ thuật:

– Thủ pháp tượng trưng :
+ Thể hiện một khoảnh khắc của cảnh vật và đỉnh điểm của xúc cảm, hàm súc nghệ thuật và thẩm mỹ khơi gợi chứ không phải là hàm xúc của châm ngôn, triết lý + vạn vật thiên nhiên. Tìm cái đẹp trong những hình ảnh đơn giản và giản dị thông thường của vạn vật thiên nhiên .
+ Thấm đẫm niềm tin Thiền tông ( Phật giáo ) và niềm tin văn hóa truyền thống phương Đông .
– Ngôn ngữ : thiên về gợi, đa nghĩa .

b. Phân loại: 3 nhóm:

– Chùm thơ về tình cảm con người ( bài 1/5 ) .
– Chùm thơ về vạn vật thiên nhiên ( bài 6-7 ) .
– Bài thơ của lòng khát khao sự sống ( bài 8 ) .

2. Tìm hiểu chi tiết

a. Bài 1

Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô là cố hương .
– Quý ngữ : Mùa sương – mùa thu
– Nội dung : Đất khách, đất lạ hóa thành quê nhà khi đã có thời hạn sống, gắn bó và xa cách .
– Bằng thưởng thức cũng như cảm nhận trong cuộc sống ở khoảng chừng thời hạn mười năm xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt tất cả chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng chừng khoảng trống, thời hạn xa vời ; đất khách và quê nhà, xưa và nay .
+ Trước cái vô hạn của khoảng trống thời hạn ta phát hiện cái hữu hạn trong đời sống con người khi tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn bó với quê nhà mỗi ngày một ngắn lại, từ đó nhà thơ cảm thấy yêu đời sống này hơn và ” ngộ ” ra một điều : đâu cũng là quê nhà .
+ Ê-đô là cố hương => trước cái hữu hình to lớn, nhà thơ biến thành cái vô hình dung nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm nhận và miêu tả trải dài tình cảm nỗi niềm của mình so với quê nhà và quốc gia .
=> Bài thơ ngắn gọn còn là một triết lí thâm thúy trong quy luật tình cảm của con người với bất kể nơi đâu khi bước chân mình đã qua, dù ngắn hay dài thì chuỗi thời hạn ấy khó vơi trong mỗi tất cả chúng ta, một lúc nào đó chợt nhớ mình lại cảm thấy day dứt xót xa như còn mang một món nợ lớn trong đời .

b. Bài 2

Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô .
– Quý ngữ : Chim Đỗ quyên – mùa hè
– Sự quy đổi cảm xúc : Tiếng chim gợi nhớ đến kinh đô. Ở kinh đô mùa hè gợi nhớ kinh đô rất lâu rồi kỷ niệm đã qua .
– Bài thơ được viết khi tác giả trở lại Ki-ô-tô sau nhiều năm phiêu bạt. Đây là cuộc gặp gỡ của những cố nhân. Một cuộc gặp gỡ đầy tâm trạng .
– Tứ thơ đơn thuần nhưng thâm thúy :
+ Âm thanh của tiếng chim đỗ quyên hót đã gợi tả sự yên bình của khoảng trống. Hai-cư vốn tôn vinh cái yên lặng, đơn sơ, hiu hắt, u huyền … bởi đó là không khí dễ gợi và dễ cảm nhận tâm trạng nhất .
+ Dùng âm thanh để gợi tả sự yên bình là bút pháp thẩm mỹ và nghệ thuật quen thuộc của thi ca cổ xưa phương Đông. Kinh đô vốn là chốn phồn hoa đô hội, vậy mà lại nghe được âm thanh của tiếng đỗ quyên hót .
– Chỉ một thứ âm thanh gợi một nỗi nhớ nhưng gợi mở bao nhiêu ý nghĩa :
+ Đứng giữa kinh đô mà nhớ kinh đô. Đây là kinh đô ở hai thời gian khác nhau. Một kinh đô đồng hiện : kinh đô của quá khứ và kinh đô của hiện tại .
+ Nỗi nhớ ở đây là ” niềm hụt hẫng ” của nhà thơ. Gặp lại kinh đô hoang tàn của hiện tại, nhớ kinh đô xưa tươi đẹp .

=> Cũng có thể hiểu rằng, bài thơ thể hiện tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với đất nước mà hiện thân của đất nước là kinh đô. Tình cảm tha thiết ấy trào dâng trong lòng khi con người ngược thời gian trở về với miền mong nhớ.

c. Bài 3

Lệ tràn nóng nực
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu .
– Quý ngữ : Làn sương thu – mùa thu .
– Cuộc đời ngắn ngủi, mong manh như làn sương hay dòng nước mắt của người con so với mẹ .
– Chuỗi hình ảnh phối hợp : giọt nước mặt – mớ tóc bạc – làn sương thu tạo nên trường liên tưởng, gợi mở những lớp nghĩa :
+ Tóc mẹ như sương – con khóc cho đời mẹ buồn thương trong nỗi ngậm ngùi .
+ Giọt nước mắt như sương – hòa tan nỗi đau của con vào vạn vật thiên nhiên .
+ Cuộc đời mỏng mảnh như hạt sương ngắn ngủi, vô thường .
=> Bài thơ mơ hồ, đa nghĩa, ghi dấu khoảnh khắc thiêng liêng của tình mẫu tử, nối kết giữa mất – còn, hữu hạn – vô hạn .

d. Bài 4

Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc ?
gió mùa thu tái tê .
– Tiếng hú của con vượn như xoáy vào nỗi niềm trắc ẩn. Nghe tiếng vượn hú, Ba-sô lại liên tưởng đến tiếng trẻ con. Ba câu thơ, hai cảnh ngộ ( hồi ức và hiện tại ) đan quyện và cộng hưởng .
=> Hình như tiếng vượn kêu não nề trong gió cũng khiến lòng người tái tê .
– Âm thanh thứ nhất gợi không khí hoang vu, nặng nề. Âm thanh thứ hai gợi bao điều trắc ẩn. Tiếng trẻ tha thiết rên rỉ trong đơn độc, trong cảnh ngộ không nơi lệ thuộc .
=> Bài thơ khắc hoạ một hình ảnh vô cùng xúc động, làm đau đớn trái tim người đọc :
+ Âm thanh của tiếng vượn hú đã thê lương nhưng ” tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc ” còn thê lương, thảm thiết hơn nhiều .
+ Bao trùm cả bài thơ là âm thanh và không khí u trầm, buồn đau. Khí trời mùa thu tái tê càng làm cho bài thơ thêm phần ảm đạm .
=> Bài thơ biểu lộ niềm cảm thông thâm thúy của nhà thơ so với những kiếp người xấu số .

e. Bài 5

Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi .
– Bài thơ này Ba-sô sáng tác khi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông .
– Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang rét co ro .
=> Bài thơ biểu lộ tình thương mến thâm thúy của nhà thơ so với những kiếp người nghèo nàn. Chú khỉ đã được nhân hoá để nói về tâm lý và tham vọng của con người về một đời sống niềm hạnh phúc .
– Bài thơ đã khái quát hoá một yếu tố rất lớn và rất thông dụng của nhân sinh, đó là khao khát, là tham vọng :
+ Con người luôn khao khát và tham vọng về một đời sống đủ đầy, niềm hạnh phúc hơn. Những tham vọng rất đỗi giản dị và đơn giản, như chú khỉ ước có được chiếc áo tơi trong cơn mưa đông .
+ Đó là mong ước có một đời sống bình yên, niềm hạnh phúc. Giữa những phút giây bộn bề của đời sống, con người luôn hướng đến những điều tốt đẹp hơn. Và điều đó khiến cho xã hội loài người ngày càng tăng trưởng .

f. Bài 6

Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa .
– Quý ngữ : Hoa đào – mùa xuân .
– Hoa đào rụng lả tả như mây hoa rơi xuống làm mặt nước hồ gợn sóng .
=> Triết lý thâm thúy : Sự tương giao giữa những sự vật, hiện tượng kỳ lạ trong thiên hà, vạn vật thiên nhiên .
– Chuỗi hình ảnh link sự vật : khoảng trống ( ánh sáng ) – hoa anh đào ( sắc tố ) – làn sóng hồ ( vật thể ) => Bức tranh mùa xuân giao hòa, thướt tha, nhẹ nhàng, bộc lộ ý niệm vạn vật tương giao .
=> Gợi nỗi buồn man mác trước sự rơi rụng của cái Đẹp trong mùa xuân .

g. Bài 7

Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm .
– Bài thơ sinh ra trong một lần Ba-sô leo lên núi đá để thăm chính điện chùa Riu-sa-ku-ji. Tiếng ve là thanh, đá là vật. Nhưng trong cảnh u tịch, lạng lẽ của chiều tà, khi tổng thể đều im ắng hết lại hoàn toàn có thể nghe được tiếng ve rền rĩ như nhiễm vào, như thấm vào đá .
– Ngôn từ của bài thơ đậm đà chất hai-cư. Ngay dòng thơ mở màn đã là cái không khí rất thâm trầm, rất phương Đông .
– Nghệ thuật hòn đảo trật tự cú pháp, nhà thơ đã nói lên được sự tương giao màu nhiệm giữa thiên thiên với vạn vật thiên nhiên, có sự tương giao màu nhiệm giữa tâm hồn nhà thơ và ngoài hành tinh nhân sinh .
+ ” Vắng lặng u trầm ” là nhóm tính từ chỉ trạng thái của ” tiếng ve ngâm thấm sâu vào đá ” .
+ Mùa hè được cảm nhận bằng những giác quan của một con người thâm trầm. Người ngắm cảnh như nghiêng mình trước buổi chiều yên ắng để lắng nghe, để chiêm nghiệm, để hoà hợp tâm hồn mình cùng những biến thái, những hoạt động rất phức tạp của tự nhiên. Thâm trầm vốn là thực chất của thiên hà. Rất nhẹ nhàng nhưng có một sức ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ, mọi vật sống sót trong quốc tế này đều lặng lẽ hoà hợp với nhau, tạo nên sự vững chắc cho quốc tế .

h. Giá trị nội dung

Thơ Ba-sô đã thức dậy nỗi nhớ da diết trong lòng những người xa quê hướng về xứ sở .

i. Giá trị nghệ thuật

– Câu thơ ngắn, hàm súc .
– Hình ảnh vạn vật thiên nhiên, tạo vật đầy quyến rũ trong liên tưởng .

Loigiaihay.com

Exit mobile version