Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Cách lạy bàn thờ gia tiên

Tín ngưỡng thờ cúng ông bà Tổ tiên là tục lệ thờ cúng những người đã khuất, đặc biệt quan trọng là Tổ tiên bộc lộ lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu thảo so với ông bà cha mẹ. Đây là một phong tục, tín ngưỡng truyền thống cuội nguồn tốt đẹp mà tất cả chúng ta cần phải duy trì, phát huy, gìn giữ .Hãy cùng Phong Thủy Tam Nguyên khám phá nghi thức thờ cúng ông bà tổ tiên chuẩn nhất trong bài viết dưới đây .

>>>>> Xem thêm:Cách lập bài vị và cách đặt bài vị gia tiên trên bàn thờ

I. Nghi thức cúng ông bà tổ tiên

Khi cúng thì người chủ gia đình phải bày đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên tắc “đông bình tây quả, rượu và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp hương, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Hương (nhang) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn.

Bạn đang đọc: Cách lạy bàn thờ gia tiên

Nghi thức cúng ông bà tổ tiênKhấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng tương quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ( dương lịch và âm lịch ), tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong mái ấm gia đình, nguyên do cúng và lời cầu nguyện, … Riêng tên người quá cố ta phải. khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tùy theo vị thế của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của cúng, khấn, vái, và lạy .

1. Lễ cúng gia tiên

Khi có giỗ Tết, gia chủ bày hoa ( bông ) quả, rượu, cỗ bàn, chén bát, đũa, thìa lên bàn thờ rồi thắp hương, thắp đèn, đốt nến ( đèn cầy ), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn, và cầu phước lành .Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa thông thường, cúng là thắp hương, khấn, lạy, và vái .

2. Khấn

Ăn có mời, làm có khiến Đối với việc cúng lễ cũng vậy. Đồ cúng lễ dù có thịnh soạn, trang trong nếu con cháu chỉ đặt lên bàn thờ, không mời thì tổ tiên ông bà ắt không phối hưởng. Bởi vậy trong buổi cúng, con cháu phải khấn. Người Việt vốn trọng nghi lễ, vì vậy mỗi dịp cúng vái đều có văn khấn riêng .Khấn là lời cầu khẩn lâm râm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ tương quan đến các cụ thể về ngày tháng năm, nơi chốn, mục tiêu buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong mái ấm gia đình, lời cầu xin, và lời hứa .Trước khi khấn, gia trưởng vái ba vái ; sau khi khấn xong, gia trưởng lễ ( lạy ) 4 lễ và vái thêm 3 vái ta gọi là 4 lễ rưỡi ( xem thêm cụ thể về vái và Lạy phần sau ) .Trong lời khấn, gia trưởng sẽ nói rõ ngày, tháng, năm và nguyên do làm lễ ( và cả các điều xin, nếu có ). Phải mời các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng với chú bác anh chị em vừa mới khuất .Trước đây lời khấn thường do thầy cúng làm và dùng chữ Nho. Nhưng thời nay việc dùng chữ Nho cho văn khấn rất hiếm. Dân gian thích dùng chữ Việt hơn, vì chữ Việt dễ viết và đọc, mạch lạc không bị hiểu nhầm

Lời khấn cần có những chi tiết sau :

  • Báo trình địa điểm hành lễ, từ nước trở xuống Tỉnh thành, Quận huyện, Phường xã, Thôn ấp.
  • Nói rõ con cháu, liên hệ gia đình làm lễ cúng với các món cỗ bàn, dâng lên hương hồn ai có tên gì, từ trần ngày tháng năm, chôn ở đâu.
  • Mời người có tên giỗ về hưởng, chứng giám lòng thành và phù hộ cho con cháu được mọi sự tốt lành.
  • Cũng mời tất cả các vị tổ, đọc rõ tên, cùng thân thuộc nội ngoại đã quá vãng cùng về hưởng lễ cúng.

Và sau đây là một đoạn khấn theo lối xưa:

Duy quốc Tỉnh / Thị xã …. trang / gia tại … ( số nhà ). Việt lịch thứ 488 …, thử nhật … ( ngày âm lịch ) húy nhật gia phụ / mẫu / Tằng tổ … là Hiển khảo / Tỷ., ( tên ) ( cho đàn bà thì là hiển tỷ ; với ông nội ngoại thì thêm chữ tổ – hiển tổ khảo / tỷ ), Hiếu tử / nữ / tôn v.v là ( Tên ) tâm thành kính cáo thành hoàng và thổ thần địa phương, tiền chủ tiếp dẫn gia phụ mẫu / cô di … ( Người được giỗ ngày hôm nay ) đồng cung thỉnh Cao tằng tô khảo, cao tằng tô tỷ, liệt vị tổ tiên, hiển tổ khảo, hiển tô tỷ, cô di tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa ngự linh sàn chứng giám. Cẩn cáo .

II. Nghi thức vái, lạy khi thờ cúng ông bà tổ tiên

1. Nghi thức vái trong thờ cúng ông bà tổ tiên

Nghi thức vái, lạy khi thờ cúng ông bà tổ tiênVái thường được vận dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế sửa chữa cho lạy ỏ trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom sống lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái .

2. Nghi thức lạy trong nghi lễ thờ cúng tổ tiên

Lạy là hành vi bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tổng thể tâm hồn và thể xác so với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy : thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy : 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều mang ý nghĩa khác nhau .Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và giơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quỳ gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang vối đầu gối chân phải đang quỳ để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quỳ cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy. Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra .

2.1. Thế lạy của đàn ông

Có thể quỳ bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quỳ chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quỳ chân nào xuống trước thì khi chuẩn bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa học và vững vàng, sở dĩ phải quỳ chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn bị đứng lên cũng vậy. Sở dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.

Thế lạy phủ phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất, đồng thòi quỳ hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy đã tập luyện hàng ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu đôi lúc mới đi lễ chùa, mọi người phải cẩn trọng vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất hoàn toàn có thể mất cân đối .

2.2. Thế lạy của đàn bà

Thế lạy của các bà là cách ngồi bệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho thích mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang vói tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy thiết yếu. Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy .Cũng có 1 số ít người lại vận dụng thế lạy theo cách quỳ hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ liên tục lạy theo cách đã trình diễn trên. Thế lạy này hoàn toàn có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy thích mắt .Thế lạy của đàn ông có vẻ như hùng dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển chuyển tha thướt, tượng trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều phiền phức là khi mặc phục trang thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao niên còn vận dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi .Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền thống cuội nguồn rất có ý nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành khẩn vừa trang nghiêm trong lúc cúng tổ tiên. Muốn vận dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập dượt lâu mới thuần thục được .Số lần lạy và vái đều mang một ý nghĩa rất đặc biệt quan trọng. Sau đây chúng tôi xin trình diễn về ý nghĩa của vái và lạy. Đây là phong tục đặc biệt quan trọng của Nước Ta ta mà người Trung Quốc không có tục lệ này. Khi cúng, người Trung Quốc chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi .

III. Ý nghĩa của lạy và vái trong thờ cúng ông bà tổ tiên

1. Ý nghĩa của 2 lạy và 2 vái

Ý nghĩa của lạy và vái trong thờ cúng ông bà tổ tiênHai lạy dùng để vận dụng cho người sống như trong trường hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của người quá cố như em, con cháu, và những người vào hàng con trẻ, … nên lạy 2 lạy .Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. ý nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào khác. Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại nhà quan, những người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái .Theo nguyên tắc âm khí và dương khí, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm khí và dương khí nhị khí hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy .

2. Ý nghĩa của 3 lạy và 3 vái

Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và Tăng. Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sáng, thanh tịnh, không bơn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy. Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc phục trang, nêu cảm thấy khó khăn vất vả trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật .

3. Ý nghĩa của 4 lạy và 4 vái

Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ và thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương ( đông : thuộc dương, tây : thuộc âm, nam : thuộc dương, và bắc : thuộc âm ), và tứ 1 tượng ( Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm ). Nói chung, bốn lạy gồm có cả âm tính lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú ngụ. Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không hề vận dụng thế lạy .

4. Ý nghĩa của 5 lạy và 5 vái

Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành ( kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành thổ màu vàng đứng ỏ giữa. Còn có quan điểm cho rằng 5 lạy tượng trưng cho bốn phương ( đông, tây, nam, bắc ) và TW, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ tổ Hùng Vương, những người trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt .Năm vái dùng đê cúng Tổ khi không hề vận dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy. Có được phong tục này là do thói quen mà mọi người đã gật đầu, nhiều khi không lý giải được nguyên do tại sao lại như thế mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi. Trong mỗi mái ấm gia đình Nước Ta, dù theo đạo nào cũng vậy, tất cả chúng ta, con dân nước Việt, hãy cố gắng nỗ lực thiết lập một bàn thờ gia tiên. Có như vậy, con cháu ta mới có thời cơ học hỏi cách thiết lập bàn thờ gia tiên, và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra làm sao .Thờ cúng ông bà tổ tiên là cách bộc lộ lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu thảo so với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống lịch sử văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt mà tất cả chúng ta cần phải duy trì. Lời khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời khấn là tấm lòng của người còn sống hoàn toàn có thể khấn sao cũng được. Tuy nhiên người xưa cũng đã đặt ra lễ khấn và lời khấn. Lễ khấn gồm các thủ tục như sau :

Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì gia trưỏng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa thì khăn đóng áo dài) đi ra mở cửa chính, ở xứ lạnh thì cũng phải ráng hé cửa chứ không được đóng cửa kín mít. Sau đó phải khấn xin Thành hoàng, Thổ địa để họ không làm khó dễ linh hồn tổ tiên về hưởng lễ giỗ.

>> > Xem thêm bộ loại sản phẩm Bàn Thờ Gia Tiên chi tiếtTại Đây

Cúng 100 ngày cho người mới mất gồm những gì? Làm như thế nào?

Tại sao nên sử dụng BỘ ĐỒ THỜ VẼ VÀNG của Phong Thủy Tam Nguyên?

Exit mobile version