Lựa chọn câu để xem giải thuật nhanh hơn

Bài mẫu

       Nguyễn Khoa Điềm được đánh giá là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của  thế hệ các nhà thơ trẻ tài năng thời chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta .Đọc các bài thơ được đưa vào học trong chương trình phổ thông vài thập niên gần đây của ông như :Mẹ và Quả; Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ; đặc biệt là bài thơ Đất Nước trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” (Ngữ văn 12 ),  có thể khẳng định rằng: khai thác chất liệu văn hoá dân gian, đặc biệt là văn học dân gian là “dấu vân tay”,là cá tính sáng tạo- nét phong cách nghệ thuật của tác giả ,góp phần tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn ở thơ ông bởi :“sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước,con người Việt Nam”. Trong bài viết này, chúng tôi mong muốn chỉ ra các loại chất liệu văn hoá được nhà thơ tìm tòi,khai thác và hiệu ứng nghệ thuật của nó mang lại cho độc giả, tạo nên trường “cộng hưởng” khi thưởng thức cảm thụ bài thơ Đất Nước nói riêng, thơ Nguyễn Khoa Điềm nói chung .

       Bài thơ Đất Nước trích  phần đầu chương V bản trường ca “Mặt đường khát vọng”, được sáng tác tại chiến khu Trị – Thiên năm 1971, xuất bản 1974. Cảm hứng chủ đạo ,tư tưởng bao trùm bài thơ là :“ĐẤT NƯỚC LÀ CỦA NHÂN DÂN”. Theo đó bài thơ được sáng tác theo phương thức trữ tình- chính luận, có kết cấu 3 phần : phần 1: Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì?; phần 2: Đất Nước là gì ? phần 3: Đất Nước do ai làm ra? Khác với các nhà thơ khác viết về Đất nước-Tổ quốc, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận và quy chiếu Đất Nước dưới 3 phương diện: thời gian( chiều dài) ; không gian( chiều rộng); văn hoá (chiều sâu),nhất là chiều sâu văn hoá dân tộc.

       Trước hết, xin giới thuyết ngắn gọn khái niệm chất liệu văn hoá dân gian. Dựa theo Từ điển tiếng Việt, văn hoá dân gian là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do nhân dân sáng tạo ra trong trường kì lịch sử thời xa xưa. Theo đó, chất liệu văn hoá dân gian là những giá trị, những sản phẩm cảvật chất lẫn tinh thần( văn hoá vật thể và phi vật thể, đặc biệt là văn học dân gian) góp phần tạo dựng, hun đúc nên nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Từ khái niệm ấy, soi chiếu vào bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy nhà thơ đã rất  ý thức và có nhiều tìm tòi, khai thác vận dụng sáng tạo các giá trị, chất liệu văn hoá để làm nổi bật tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất Nước là của Nhân Dân, chứ không phải của các vương triều như quan niệm phong kiến ngày xưa .

       Ở phần đầu bài thơ (Đất Nước có từ khi nào và bắt đầu từ cái gì? ), nhà thơ tập trung khai thác chất liệu văn hoá dân gian qua các thể loại văn học dân gian, các sản phẩm văn hoá về phong tục,sản xuất, đặc biệt là ý nghĩa phồn thực của chúng làm nên bản sắc văn hoá dân tộc. Cụm từ “ngày xữa ngày xưa” là mô tuýp mở đầu quen thuộc của truyên dân gian. Hai hình ảnh “miếng trầu” bà ăn và “búi tóc” sau đầu của mẹ gợi ra nhiều ý nghĩa .Đó không chỉ là tập tục lâu đời ở người Việt khác xa với người Hán, mà còn gợi ra bao giá trị văn hoá đặc sắc của người Việt. Gắn với mái tóc người phụ nữ có bao nhiêu câu tục ngữ ,ca dao: “Hàm răng mái tóc là góc con người”; “Tóc ngang lưng vừ chừng em búi/ Để chi dài bối rối lòng anh ”… Hay tục ăn trầu gắn với miếng trầu đã kết tinh trong nó bao nhiêu giá trị sâu xa .Miếng trầu nhỏ nhắn nhưng không thể thiếu  trong các nghi lễ trang trọng: hỏi cưới, giỗ chạp. Miếng trầu là vật xã giao: “miếng trầu là đầu câu chuyện”; miếng trầu kết duyên tình nghĩa vợ chồng, anh em: “miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người”; miếng trầu còn là vật giao duyên  tình chồng –vợ “Trầu này trầu tính trầu tình/ trầu loan trầu phụng, trầu mình lấy ta…” Chúng ta có cả một “văn hoá trầu” ! Các hình ảnh “cái kèo cái cột, hạt gạo” là sản phẩm văn hoá vật chất gắn với thói quen ở- ăn của người Việt và cả nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Cụm từ “gừng cay- muối mặn” không chỉ phản ánh văn hoá “ẩm thực” của dân tộc ta mà còn gợi ra lối sống tình nghĩa thuỷ chung ,được khai thác qua các câu ca dao- dân ca : “Tay bưng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay,muối măn xin đừng quên nhau”; hoặc: “Muối đã mặn ngàn năm còn mặn / Gừng đã cay muôn thuở còn cay…”. Thật là xúc động và thấm thía .

       Sang phần 2 “ Đất Nước là gì?” nhà thơ lại có cách khai thác ,tìm tòi các chất liệu văn hoá dân gian đặc sắc. Đó là tập trung chủ yếu vào văn học dân gian, kết hợp các giá trị văn hoá truyền thống với hiện đại trong trách nhiệm bổn phận của chúng ta hôm nay. Hình ảnh “chiếc khăn” trong câu thơ “ Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” lấy cảm hứng từ bài ca dao tình yêu: “ Khăn thương nhớ ai /khăn rơi xuống đất/ khăn thương nhớ ai /khăn vắt trên vai..” nhà thơ muốn chuyển tải thông điệp : Đất Nước gắn với không gian sinh hoạt mỗi người, và cũng là “không gian tình yêu lứa đôi”. Hai câu dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc; con cá ngư ông mống nước biển khơi” không chỉ bộc lộ tình yêu với quê hương Bình –Trị -Thiên của mình, mà còn để chỉ ra rằng : đất nước gắn với không gian miền xuôi, miền ngược; rừng núi và biển đảo, là không gian sinh tồn và đoàn tụ của 54 dân tộc anh em .

       Đáng chú ý là ở đoạn cuối phần thơ này, tác giả tập trung khai thác  các truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử của dân tộc. Các hình ảnh “chim – rồng”, các nhân vật truyền thuyết “Lạc Long Quân- Âu Cơ”, “bọc trứng” gợi nhắc về cội nguồn tổ tiên cao quý đáng tự hào của dân tộc. Người Việt là “ con Lạc cháu Hồng; con Rồng cháu Tiên”. Câu thơ : “ Hàng năm ăn đâu làm đâu / Cũng biết cúi đầu nhớ  ngày giỗ Tổ”, không chỉ nhắc nhớ về các thế hệ vua Hùng (18 đời) có công dựng nước và giữ nước được đúc kết qua  câu tục ngữ: “ Dù ai buôn ngược bán xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”, mà còn ghi tạc đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của ông cha.

       Sang phần 3 –phần thể hiện tập trung cảm hứng chủ đạo bài thơ : “ Đất Nước là của Nhân Dân”, Nguyến Khoa Điềm lại có cách khai thác, tìm tòi sáng tạo .

       Trong ý tưởng nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện không gian địa lí, nhà thơ đã tập trung tìm tòi khám phá  sự giao thoa hoà quyện các truyền thuyết dân gian với các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử  văn hoá. Truyện Sự tích đá Vọng Phu  vả chăng được dệt nên từ danh thắng những hòn Vọng Phu suốt chiều dài đất nước, và để dân gian thổi vào đó tấm lòng thuỷ chung “chờ chồng nuôi con” của người phụ nữ Việt Nam? Rồi “hòn trống mái” cũng rất có thể như vậy. Chủ ý là khẳng định vẽ đẹp trong tình cảm vợ chồng luôn gắn bó son sắt bên nhau. Còn “gót ngựa Thánh Gióng; đất Tổ Hùng Vương” lại khái thác các truyền thuyết dân gian : truyền thuyết Thánh Gióng và truyền thuyết các vua Hùng dựng nước và giữ nước .Một loạt tên các người dân : Ông Đốc ,Ông Trang, Bà Đen, bà Điểm lại được nhà thơ quy chiếu gắn với các địa danh, sơn danh Nam Bộ( cầu ông Đốc, ông Trang, núi bà Đen,chợ bà Điểm…)

       Để khẳng định nhân dân là người gánh đất nước trên dặm dài lịch sử oanh liệt của dân tộc, nhà thơ chỉ gợi ra vài chất liệu khái quát. Không phải ngẫu nhiên ở đoạn này ông lặp lại hai lần con số 4000 năm ( bốn nghìn năm Đất Nước, bốn nghìn lớp người).Thông điệp ngắn gọn nhân dân là người viết nên những trang sử vẻ vang trong suốt 4000 ngàn năm của dân tộc. Câu thơ “ Khi có giặc người con trai ra trận” gợi nhắc bài  câu ca dao  : “ Nàng về nuôi cái cùng con / Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng” có lẽ ra đời thời Lê – Mạc tương tàn. Câu thơ: “ Ngày giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” chính là câu tục ngữ “ Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để thể hiện truyền thống anh hùng ,bất khuất của phụ nữ Việt Nam…

       Ở đoạn khẳng định nhân dân làm nên Đất Nước trên bình diện văn hoá, Nguyễn KhoaĐiềm liệt kê hàng loạt các sản phẩm, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể do nhân dân tạo lập nên. Đó là nên văn minh nông nghiệp :“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ;họ chuyền lửa qua mỗi nhà., họ đặp đập be bờ…” Đó là giá trị tinh thần tâm linh “Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói, Họ gánh tên làng ,tên xã trong mỗi chuyến di dân”. Đoạn thơ cuối nhà thơ khai thá chiều sâu ý nghĩa  trong nhiều bài ca dao –dân ca. Cụm từ “ yêu em từ thuở trong nôi” lấy từ bài ca dao : “Yêu em từ thuở trong nôi / Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru” để khẳng định tình cảm mãnh liệt, bền chặt, thuỷ chung của người Việt. Câu thơ “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” là lấy ý tứ từ câu ca dao : “Cầm vàng mà lội qua sông / Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng” muốn nhắn nhủ với chúng ta phải biết quý trọng công sức lao động. Câu thơ “ Biết trồng tre…Đi trả thù không sợ dài lâu” lấy ý từ câu ca dao : “ Thù này ắt hẵn còn lâu / Trồng tre thành gậy ,gặp đâu đánh què” là để nhắn nhủ mọi người chớ vội quên kẻ thù, mối thù ta đang chất chứa trong lòng. Người xưa có câu “ Quân tử báo thù 10 năm chưa muộn”. Tất cả góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách, lẽ sống của dân tộc ta .

       Tóm lại, tìm hiểu chất liệu văn hoá dân gian trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm góp phần giúp giáo viên  và học sinh nhận diện các giá trị các sản phầm VHDG, và sự tìm tòi khai thác sáng tạo đặc sắc của nhà thơ trong việc thể hiện cảm hứng chủ đạo bài thơ : Đất Nước là của Nhân Dân” khi giảng dạy học tập bài thơ này nói riêng và một số bài thơ khác có khai thác sữ dụng VHDG nước ta nói chung. Tìm hiểu chất liệu VHDG trong bài thơ Đất Nước của nhà thơ góp phần tô đậm “dấu vân tay” trong cá tính sáng tạo nghệ thuật thơ  của tác giả qua  nghệ thuật chắt lọc tinh tế, sâu sắc văn hoá dân gian của Nguyễn Khoa Điềm ,đồng thời khẳng định một chân lí “ VHDG là bầu sữa nuôi dưỡng sự sáng tạo và tài năng nghệ thuật” văn nghệ sỹ.

Nguồn: sưu tầm

Loigiaihay.com

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *