Bộ Dơi (danh pháp khoa học: Chiroptera) là bộ có số lượng loài nhiều thứ hai trong lớp Thú với khoảng 1.100 loài, chiếm 20% động vật có vú (đứng đầu là bộ Gặm nhấm chiếm 40% số loài). Từ Chiroptera trong tiếng Hy Lạp là ghép bởi 2 từ: cheir (χειρ) “bàn tay” và pteron (πτερον) “cánh”. Như tên gọi, cấu tạo hai chi trước của chúng giống như bàn tay con người với các ngón tay được nối liền bởi màng da và tạo thành đôi cánh. (chính xác thì ở dơi cánh được tạo bởi màng da nối liền xương cánh tay và các ngón tay)
Dơi là động vật hoang dã có vú duy nhất hoàn toàn có thể bay được. Một số loài thú khác như chồn bay, sóc bay … trông có vẻ như như hoàn toàn có thể bay nhưng thực ra chúng chỉ hoàn toàn có thể lượn – trong một khoảng cách có số lượng giới hạn. Khoảng 70 % số loài dơi ăn sâu bọ, số còn lại hầu hết ăn hoa quả và chỉ có vài loài ăn thịt. Dơi thiết yếu cho sinh thái xanh bởi chúng đóng vai trò thụ phấn hoa hay phát tán hạt cây, sự phân tán của nhiều loài cây phụ thuộc trọn vẹn vào dơi. Loài dơi nhỏ nhất là dơi mũi lợn Kitti chỉ dài 29 – 33 mm, nặng khoảng chừng 2 gam. Loài lớn nhất là dơi quả đầu vàng lớn với sải cánh dài 1,5 m và cân nặng khoảng chừng 1,2 kg .
Hóa thạch dơi.
Hóa thạch loài Onychonycteris finneyi vào khoảng 52 triệu năm tuổi, thuộc thế Eocen của kỷ Paleogen trong đại Tân Sinh, được tìm thấy ở Wyoming (Mỹ) năm 2003.
Bạn đang đọc: Bộ Dơi – Wikipedia tiếng Việt
Loài dơi cổ này có cách bay và ngoại hình khác với loài những loài dơi thời nay. Onychonycteris có móng trên cả năm đầu ngón mỗi chi trước, trong khi những loài dơi văn minh có nhiều nhất hai móng. Chúng cũng có chi sau dài hơn và cẳng tay ngắn hơn dơi thời nay, thuận tiện cho việc bám lên cành cây. Đôi cánh ngắn, rộng không làm chúng bay nhanh và xa như dơi văn minh. Mặc dù đập cánh nhưng Onychonycteris cũng chỉ lượn từ cây này sang cây khác, phần đông thời hạn chúng chỉ leo và bám trên cây .
Theo phân loại truyền thống lịch sử có 2 phân bộ dơi là :
Cho dù được đặt tên như vậy nhưng không phải bất kỳ loài dơi lớn nào cũng có kích cỡ lớn hơn những loài dơi nhỏ. Một số sự độc lạ chính giữa 2 phân bộ là :
- Những loài dơi nhỏ định vị bằng sóng âm, còn loài dơi lớn thì không.
- Loài dơi nhỏ không có móng ở ngón thứ hai của chi trước (cánh).
- Tai của dơi nhỏ không phải là một vòng khép kín.
- Dơi nhỏ không có lông dưới bụng.
Dơi con thường bị rơi xuống đất khi không được chăm sóc. Tuy nhiên dơi con có thể bám vào mẹ và cùng di chuyển, dơi con phát triển nhanh nên sẽ rất khó khăn nếu dơi mẹ phải mang một lúc nhiều con. Đó là lý do tại sao 1 năm dơi mẹ chỉ sinh 1 lần.Khả năng bay là bẩm sinh, tuy nhiên khi mới sinh đôi cánh của dơi quá nhỏ để bay, các loài dơi nhỏ (thuộc phân bộ Microchiroptera) bay được khi chúng được 6 đến 8 tuần tuổi trong khi các loài dơi lớn (thuộc phân bộ Megachiroptera) phải mất 4 tháng mới biết bay. Dơi trưởng thành khi được 2 năm tuổi. Tuổi thọ trung bình của dơi là khoảng 20 năm, tuy vậy số lượng dơi không được nhiều do tỉ lệ sinh thấp.
Xem thêm: Anh chị em họ – Wikipedia tiếng Việt
Dơi trong văn hóa truyền thống.
Trong văn hóa truyền thống, dơi được tái hiện qua nhiều phim ảnh, tiểu thuyết, truyện tranh …, theo đó dơi thường được miêu tả là một loài vật hút máu với hàm răng nhọn hoắt trắng ghê rợn, chúng hại người, súc vật, là hiện thân của ma cà rồng. Một số nhân vật hư cấu có tương quan đến dơi như Người dơi ( Batman ) của Mỹ là một anh hùng, Phi Thiên Biển bức Kha Trấn Ác – sư phụ của Quách Tĩnh hay Thanh Dực Bức vương Vi Nhất Tiếu trong tiểu thuyết của Kim Dung, Biên bức công tử trong tiểu thuyết của Cổ Long, Phan Văn Đỉnh trong Đặc vụ dơi .. v.v…Trong văn hóa truyền thống đại chúng của người Á Đông, dơi thường được trang trí trong những họa tiết để tượng trưng cho sự suôn sẻ vì chữ dơi tiếng Hán là Bức đồng âm với từ Phúc có nghĩa là suôn sẻ. Thuật ngữ mặt dơi tai chuột chỉ về hình tướng dị hợm, quái đản, bất tài .
Loại dơi lớn . Nơi cư ngụ của dơi lớn . Nơi cư ngụ của dơi nhỏ . Loại dơi nhỏ .
Liên kết ngoài.
Source: http://139.180.218.5
Category: Thuật ngữ đời thường