Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Khái niệm hóa (Conceptualization) là gì? – http://139.180.218.5

( Last Updated On : 28/01/2022 By Lytuong. net )Khái niệm hóa ( conceptualization ) là quy trình nhận thức, trong đó những phạm trù ( hay khái niệm ) và những thành tố cấu thành của chúng còn mơ hồ, chưa đúng chuẩn được định nghĩa bằng những thuật ngữ đơn cử, rõ ràng và đúng chuẩn .

Ví dụ, chúng ta thường sử dụng từ “định kiến” (prejudice) và thuật ngữ này gợi lên những hình dung khác nhau trong nhận thức của chúng ta, tuy nhiên, chúng ta có thể cảm thấy hết sức khó khăn để xác định chính xác thuật ngữ này có nghĩa là gì. Nếu ai đó nói những điều xấu về các chủng tộc khác, liệu đó có phải là định kiến về chủng tộc? Nếu phụ nữ được trả ít tiền hơn nam giới khi họ làm cùng một công việc, đó có phải là định kiến về giới? Nếu các con chiên tin rằng người không có niềm tin vào Chúa sẽ bị thiêu đốt trong địa ngục. Vậy đó có phải là định kiến tôn giáo? Có các loại định kiến khác nhau và chúng là những gì? Có những mức độ khác nhau của định kiến, chẳng hạn như sâu sắc hay chỉ một chút đỉnh? Trả lời tất cả những câu hỏi này là chìa khóa để đánh giá, đo lường một cách chính xác phạm trù “định kiến”. Quá trình nhận thức về những gì sẽ được bao hàm và những gì được loại trừ trong khái niệm “định kiến” chính là quá trình khái niệm hóa.

Quá trình hình thành khái niệm là điều kiện kèm theo tiên quyết trong khoa học xã hội chính bới trong thực tiễn có rất nhiều phạm trù thiếu đúng mực, không rõ ràng và mơ hồ. Ví dụ, liệu “ lòng từ bi ” ( compassion ) có tương tự như như “ sự đồng cảm ” ( empathy ) hay “ sự thương cảm ” ( sentimentality ) ? Nếu bạn có một vấn đề nói rằng “ lòng từ bi tương quan tích cực đến sự đồng cảm ”, bạn không hề kiểm định vấn đề này trừ khi bạn phân biệt rõ ràng khái niệm “ lòng từ bi ” và khái niệm “ sự đồng cảm ”, sau đó nhìn nhận một cách đúng mực bằng thực nghiệm hai phạm trù rất giống nhau này. Nếu những người sùng đạo tin rằng 1 số ít thành viên của xã hội, ví dụ điển hình như những người vô thần, người đồng tính và những bác sĩ nạo phá thai, sẽ bị hoả thiêu trong âm ti vì tội lỗi của họ, những con chiên này ngày đêm cố gắng nỗ lực đổi khác hành vi “ tội lỗi ” để tránh phải bị đày ải ở âm ti. Vậy thì hành vi của họ là đáng thương hay đáng trách ? Định nghĩa về những phạm trù như vậy không có bất kể tiêu chuẩn khách quan nào mà dựa trên ý niệm chủ quan của tất cả chúng ta về phạm trù đó .

Trong khi định nghĩa các phạm trù như “định kiến” hay “lòng từ bi”, cần nhớ rằng đôi khi, các phạm trù này là không có thật hoặc có khả năng tồn tại riêng rẽ, nhưng chúng được sáng tạo trong nhận thức của chúng ta. Ví dụ, có thể có một số bộ lạc trên thế giới họ không có định kiến với bất kỳ vấn đề gì; do đó họ không thể tưởng tượng được khái niệm này là gì. Nhưng trong nghiên cứu, cần phải xem các khái niệm này là có thật. Quá trình coi những phạm trù tinh thần có thật được gọi là vật thể hóa (reification). Đó là cơ sở để định nghĩa các phạm trù và xác định các biến đo lường để đánh giá chúng.

Một trách nhiệm quan trọng khi khái niệm hóa những phạm trù đó là phải xác lập chúng là đơn hay phức. Phạm trù đơn chỉ có một nghĩa và hoàn toàn có thể đo lường và thống kê, nhìn nhận chỉ bằng một kiểm định, ví dụ cân nặng của người, vận tốc gió. Trong khi đó, phạm trù phức tiềm ẩn hai hay nhiều góc nhìn. Ví dụ, khi khái niệm hóa phạm trù “ năng lượng học tập cá thể ”, phạm trù này gồm có năng lực toán học và năng lực ngôn từ ; vậy nên mỗi góc nhìn cần phải được nhìn nhận một cách riêng không liên quan gì đến nhau, sau đó tác dụng sẽ được tổng hợp để đưa ra Kết luận sau cuối về năng lượng học tập của một người .

Exit mobile version