1. Routing Protocol :
Routing được phân làm 3 dạng chính là Interior – Exterior -System. Ở đây chúng ta sẽ chỉ đề cập đến Interior và Exterior
– Interior route thực hiện công việc các công việc hội tụ các routing-table trong cùng một AS ( Autonomous System )
– Exterior thực hiện việc routing giữa các autonomous system với nhau + các policy về sercurity .
– VD : Interior : RIP v1, RIP v2, IGRP, OSPF, EIGRP, ….
Exterior : BGP4, EGP .v.v.
– Các interior Routing protocol có thể được phân thành 3 nhóm ( do sử dụng các thuật giải khác nhau ) : Distance Vector (RIP v1, RIP v2, IGRP), Link-State(OSPF, IS-IS), và Hybrid (eigrp)
– Khái niệm routing-table : là một dạng database cần thiết để thực hiện công việc tìm đường nhanh nhất (Path-determination) cho một packet khi đi vào một internetwork. Routing-table có thể có xây dựng thông qua nhiều cách ,có thể có được một cách tự động thông qua các routing protocol khác nhau hoặc được cấu hình trực tiếp thông qua admin. Mục đích chính của thao tác định tuyến là làm sao tất cả các router của AS có được một routing-table đúng nhất, đồng nhất để việc routing-switching diễn ra tốt nhất. Định tuyến luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu vì việc định tuyến không tốt sẽ dẫn đến toàn bộ mạng sẽ bị down .
2. Distance Vector :
Các giao thức định tuyến thuộc loại này như : RIP, IGRP, ……
Hoạt động theo nguyên tắc Neighbor, nghĩa là mỗi router sẻ gửi routing-table của mình cho tất cả các router được nối trực tiếp với nó. Các router đó sau đó so sánh với bảng routing-table mà mình hiện có và kiểm tra lại các tuyến đường của mình với các tuyến đường mới nhận được, tuyến đường nào tối ưu hơn sẻ được đưa vào routing-table. Các gói tin update sẽ được gửi theo định kỳ (30 giây với RIP ,90 giây đối với IGRP).
+Ưu điểm : Dễ cấu hình, router không phải xử lý nhiều nên không tốn nhiều dung lượng bộ nhớ và CPU có tốc độ xử lý nhanh hơn .
+Nhược điểm :
– Hệ thống metric quá đơn giản (như rip chỉ là hop-count ) dẫn đến việc các tuyến đường được chọn vào routing-table chưa phải tuyến đường tốt nhất
– Vì các gói tin update được gửi theo định kỳ nên một lượng bandwidth đáng kể sẻ bị chiếm (mặc dù mạng không gì thay đổi nhiều) .
+ Do Router hội tụ chậm, dẫn đến việc sai lệch trong bảng địn tuyến gây nên hiện tượng loop .
Bạn đang đọc: Vài nét cơ bản về Distance Vector và Link State
3. Link State :
Các giao thức định tuyến thuộc loại này như OSPF, IS-IS .
Link State không gửi bảng định tuyến của mình, mà chỉ gửi tình trạng của các đường link trong linkstate-database của mình đi cho các router khác, các router sẽ áp dụng giải thuật SPF (shortest path first ), để tự xây dựng routing-table riêng cho mình. Khi mạng đã hội tụ, Link State protocol sẽ không gửi update định kỳ mà chỉ gởi khi nào có một sự thay đổi trong mạng (1 line bị down, cần sử dụng đường back-up)
+ Ưu điểm : Có thể thích nghi được với đa số hệ thống, cho phép người thiết kế có thể thiết kế mạng linh hoạt, phản ứng nhanh với tình huống xảy ra.
Do không gởi interval-update, nên link state bảo đảm được bandwidth cho các đường mạng .
+ Nhược điểm :
– Do router phải sử lý nhiều, nên chiếm nhiều bộ nhớ, tốc độ CPU chậm hơn nên tăng delay
– Link State khá khó cấu hình để chạy tốt .
4. So sánh giữa Link State và Distance Vector
+ Các router định tuyến theo Distance vector triển khai gửi định kỳ hàng loạt bảng định tuyến của mình và chỉ gửi cho những router Neighbor liên kết trực tiếp với mình .
+ Các router định tuyến theo Distance vector không biết được đường đi đến đích một cách đơn cử, không biết về những router trung gian trên đường đi và cấu trúc liên kết giữa chúng .
+ Trong Distance Vector thì bảng định tuyến là nơi lưu hiệu quả chọn đường tốt nhất của mỗi router. Do đó, khi chúng trao đổi bảng định tuyến với nhau, những router chọn đường dựa trên hiệu quả đã chọn của router Neighbor. Mỗi router nhìn mạng lưới hệ thống mạng theo sự chi phối của những router Neighbor .
+ Các router định tuyến theo distance vector triển khai update thông tin định tuyến theo định kỳ nên tốn nhiều băng thông đường truyền. Khi có sự biến hóa xảy ra, router nào phân biệt sự biến hóa tiên phong sẽ update bảng định tuyến của mình trước rồi chuyển bảng định tuyến update cho những router Neighbor .
+ Trong giao thức định tuyến Link State, những router sẽ trao đổi những LSA ( link state advertisement ) với nhau để thiết kế xây dựng và duy trì cơ sở tài liệu về trạng thái những đường link hay cơ sở tài liệu về cấu trúc mạng ( topology database ). Các thông tin trao đổi được gửi dưới dạng multicast .
+ Trong giao thức định tuyến Link State mỗi router đều có một cái nhìn rất đầy đủ và đơn cử về cấu trúc của mạng lưới hệ thống mạng. Từ đó mỗi router sẽ dùng thuật toán SPF để giám sát chọn đường đi tốt nhất đến từng mạng đích .
+ Khi những router định tuyến theo Link State đã quy tụ xong, nó không thực thi update định tuyến theo chu kỳ luân hồi mà chỉ update khi nào có sự đổi khác xảy ra. Do đó thời hạn quy tụ nhanh và ít tốn băng thông .
+ Giao thức định tuyến theo link state có hỗ trợ CIDR, VLSM nên chúng là một chọn lựa tốt cho các mạng lớn và phức tạp. Nhưng đồng thời nó đòi hỏi dung lượng bộ nhớ lớn và khả năng xử lý mạnh của CPU của router.
+ Để bảo vệ là những database luôn có thông tin mới, trong những LSA này được đánh thêm chỉ số sequence. Chỉ số sequence được mở màn từ giá trị initial đến giá trị Max-age. Khi một router nào đó tạo ra một LSA, nó sẽ đặt giá trị sequence bằng initial. Mỗi khi router gửi ra một phiên bản LSA update khác, nó sẽ tăng giá trị đó lên 1. Như vậy, giá trị sequence càng cao thì LSA update càng mới. Nếu giá trị sequence này đạt đến max-age, router sẽ flood LSA ra cho tổng thể những router còn lại, sau đó router đó sẽ set giá trị sequence về initial .
================================
Writen by : NBQ Thắng from : Học viện Sao Bắc Đẩu
Please: Ghi lại thông tin khi sử dụng lại bài viết này !
Nội dung chính
- Thêm
Thích bài này:
Thích
Đang tải …
Có liên quan
Source: http://139.180.218.5
Category: Thuật ngữ đời thường