Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

‘Bí mật’ của những loại hạt góp vui ngày xuân

Hạt dưa, hạt điều, hạt hướng dương, hạt bí ngoài việc làm ” vui tai, sung sướng ” còn có nhiều hiệu quả có ích, có lợi cho sức khỏe thể chất ; ví dụ hạt dưa lợi tiểu, hạ huyết áp, tăng cường sinh lực …Trong mấy ngày xuân, khi đến thăm và chúc Tết người thân trong gia đình, bạn hữu, người ta thường quây quần bên ấm trà, bầu rượu để chiêm ngưỡng và thưởng thức không khí đầu năm mới. Một trong những món thường góp vui lúc này là hạt dưa hoặc hạt điều, hạt hướng dương, hạt bí. Tiếng hạt vỡ lách tách làm cho “ vui tai, vui mừng ” cùng với vị ngọt béo, thơm ngon làm cho mọi người thấy tự do, vui tươi hơn .

1. Hạt dưa

Hạt dưa lấy từ quả dưa hấu. Người ta chọn giống rỗng ruột nhưng có nhiều hạt để trồng. Đất trồng thích hợp là loại đất cát phù sa hoặc đất thịt pha cát. Thường trồng vào tháng 2-3 đến tháng 8-9 thì thu hoạch.

Chọn những trái dưa chín đỏ, bổ làm đôi rồi móc ruột dưa cho vào chậu nước để bóp nát hết ruột dưa. Sau đó dùng rỗ thưa để gạn lấy hạt to, chắc, đem phơi nắng cho khô rồi đem rửa lại một lần nữa cho sạch lớp nhựa bọc ngoài vỏ hạt. Phơi thêm một nắng nữa cho khô đều .
Hạt dưa màu đỏ đem lại điều may mắn vả làm cho môi người ăn đỏ hồng tươi tắn hơn

Hạt dưa màu đỏ đem lại điều may mắn vả làm cho môi người ăn đỏ hồng tươi tắn hơn. Ảnh: laodong

Hạt dưa được chế biến thành hai loại : hạt dưa rang nhuộm đỏ và hạt dưa luộc màu đen .
– Hạt dưa rang được chế biến theo cách sau : cho hạt khô vào chảo lớn, đun lửa nóng và hòn đảo đều tay liên tục. Đến khi thấy hạt trở màu vàng thì rưới dầu phụng vào, hòn đảo đều cho bóng vỏ hạt. Nhấc chảo xuống, để nguội rồi rang tiếng lần thứ hai với lửa nhỏ riu riu, đồng thời cho nước phẩm màu đỏ vào, hòn đảo đều liên tục cho đến khi hạt có màu đỏ là được .
– Hạt dưa đen được chế như sau : Dùng vỏ thân và lá ( tươi hoặc khô ) của cây phèn đen ( Phylanthus reticulatus Poir ) để chế biến thành chất nhuộm màu đen. Trộn chất nhuộm này với nước pha muối, hòa đều rồi cho vào chảo cùng với hạt dưa để luộc chín. Khi thấy vừa sôi thì giảm lửa, để riu riu cho chín liền đổ ra, đem phơi khô sẽ có hạt dưa đen .
Ngày Tết, người ta yêu thích loại hạt dưa màu đỏ, vì màu đỏ tươi đẹp, đem lại điều như mong muốn vả làm cho môi người ăn đỏ hồng tươi tắn hơn. Loại hạt dưa ngon là hạt to, đều, chắc, không bị rang dòn quá, khi cắn sẽ vỡ nát .
Trong hạt dưa chứa dầu béo có tỷ suất biến hóa 20-40 %, còn có enzym ureaza và 1 số ít acid amin .
Theo đông y, hạt dưa hấu có vị ngọt, tính mát khi chưa rang chín, sau khi rang có tính bình, tính năng hạ nhiệt, lợi tiểu, hạ huyết áp, tăng cường sinh lực. Nếu dùng chữa bệnh thì dùng hạt dưa luộc tốt hơn hạt dưa rang .

2. Hạt điều

Hạt điều lấy từ quả của cây điều, tức cây đào lộn hột. Cây được trồng nhiều nơi để lấy thịt quả ăn và quả hạch để chế biến hạt điều. Cây điều trồng 4-5 năm mới thu hoạch, thường vào tháng 3, 4, 5. Sau khi thu hoạch quả chín, người ta vặn nhẹ để tách quả hạch khỏi quả giả, đem phơi nắng nhạt rồi liên tục hong cho khô trước khi đưa vào kho chứa .
Quả giả ( cuống quả ) chứa nhiều vitamin và muối khoáng nên được sử dụng làm nước quả hoặc cho lên men để chế rượu .
Việc lấy hạt từ quả hạch ( quả thật ) và lấy nhựa ở quả điều là một việc làm phức tạp, nếu bị dính nhựa vào da tay sẽ gây phỏng và 1 số ít bệnh ngoài da .
Trong 100 g nhân hạt điều có chứa những chất sau : nước 4 g, glucid 28,7 g, protid 18,4 g, lipid 46,3 g, tro 2,6 g, những chất khoáng : Ca 28 mg, P 462 mg, Fe 3,6 mg, vitamin A 5 mcg, vitamin B1 0,25 mg, vitamin C 1 mg, cung ứng 564 Kcalo ( theo FAO. 1976 ) .
Theo đông y, hạt điều có vị ngọt, bùi, tính ấm, tính năng bổ dưỡng, làm dịu, trừ đàm. Rất tốt cho người suy nhược khung hình, đau họng, ho do phong hàn, nhiều đàm .
Như vậy, hạt điều là một loại sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế tài chính. Khi rang lên, hạt điều có mùi vị thơm ngon, ngọt, bùi, rất độc lạ. Thường được dùng làm nhân kẹo, bánh. Thường dùng nhất là hạt điều rang vàng, tẩm muối hay trộn với đường mạch nha, kẹp giữa 2 lớp bánh tráng giòn xốp, dùng để ăn khi nhâm nhi chén trà nóng .
Bên cạnh việc dùng hạt điều nguyên hạt, loại hạt này còn được chế biến dưới nhiều dạng khác nhau trong nhiều món ăn châu Á, và thậm chí còn là trong dầu gội đầu hay trong một số ít mỹ phẩm .
Trong cách chế biến những món ăn, hạt điều với mùi vị rực rỡ của nó đã làm tăng sự mê hoặc của món ăn, như khi xào chung với thịt gà, thịt bò … Nhiều người còn cho bột hạt điều vào những món sốt .
Theo tiến sỹ Andrew Clark thuộc bệnh viện Addenbrookes, Cambridge ( Anh ), dị ứng hạt điều có những bộc lộ như khó thở, gây những triệu chứng của bệnh tim mạch như rối loạn nhịp tim hay tụt huyết áp .
Để có hạt điều ngon, bạn nên chọn mua loại hạt có màu vàng sáng, khô ráo, nở to, không cháy sém hay bị mốc. Hạt điều sau khi rang chín, nên cho vào lọ thủy tinh sạch và khô, có nắp đậy kín, giữ nơi khô ráo, tránh ánh sáng. Hạt điều để lâu sẽ bị mềm, hoàn toàn có thể cho vào chảo, rang sơ với lửa nhỏ, sau đó để nguội, hạt điều sẽ giòn trở lại .

3. Hạt hướng dương

Hạt hướng dương lấy từ cây hướng dương còn được gọi là thiên quỳ tử, quỳ tử, quỳ hoa tử. Loại cây này được trồng nhiều nơi để làm cảnh, lấy hạt làm thuốc và làm thực phẩm. Khi quả chín, người ta nhổ toàn cây và tách riêng những phần, đem sấy khô để dùng .
Trong 100 g hạt ( quả ) hướng dương rang chín, có chứa những chất sau : Protid 24,6 g, lipid 54,4 g glucid 9,9 g, những chất khoáng : Ca 45 mg, P 354 mg, Fe 4,3 mg, Caroten 0,1 mg, vitamin B1 0,88 mg, vitamin B2 0,2 mg, vitamin PP 5,1 mg, phân phối 628 Kcal .
Ngoài ra, hạt hướng dương còn có albumin 13,50 g, nuclein 0,51 g, lecithin 0,23 g, pentosan 2,74 g. Qua nghiên cứu và điều tra, người ta ghi nhận chất phosphatide trong hạt hướng dương có tính năng dự trữ những chứng cao mỡ máu cấp và chứng tăng cholesterol máu mạn tính. Chất acid linolenic trong hạt hướng dương có công dụng chống hình thành huyết khối .
Theo đông y, hạt hướng dương có vị ngọt, tính ấm, công dụng bổ dưỡng, cầm máu, sát trùng, thúc phát ban. Thường dùng chữa kiết lỵ, ra máu, sốt phát ban, bổ dưỡng khung hình, chữa chán ăn, stress, nhức đầu do suy nhược thần kinh .
Người ta còn dùng hạt để chế biến dầu hướng dương, là một loại dầu ăn tốt vì có chứa nhiều acid béo .
Để chữa kiết lỵ, đại tiện xuất huyết, dùng hạt hướng dương ( đã bóc vỏ ) 30 g, hãm với nước sôi trong 1 tiếng, pha thêm chút đường phèn uống trong ngày. Trường hợp bị chứng ù tai, mỗi ngày nên dùng vỏ hạt hướng dương 15 g, sắc lấy nước uống .

4. Hạt bí

Bí ngô hoàn toàn có thể gieo trồng và thu hoạch quanh năm nhưng thu hoạch vào mùa thu và đông, hạt sẽ có tính năng cao nhất. Để làm rau ăn, người ta thu hái quả non hoặc quả già. Nếu muốn dùng hạt, thì phải thu hái quả già, thịt quả dùng tươi, hạt đem rửa sạch, phơi khô để dùng dần .
Trong 100 g hạt bí rang có chứa những chất sau : Protid 35,1 g, lipid 31,8 g, glucid 23,3 g, những chất khoáng : Ca 235 mg, P 670 mg, Fe 6,7 mg, caroten 0,47 mg, vitamin B1 0,15 mg, vitamin B2 0,15 mg, vitamin PP 3 mg, cung ứng 520 Kcal .
Hạt bí còn có những khoáng chất như Mg, Zn, Selen, Mn, Cu …, chất xơ ; những axit béo không no như omega-3 và omega-6 ; vitamin E ; tiền chất prostaglandin, và 1 số ít axit amin khác như axit glutamic, arginine …
Dầu hạt bí chứa những glyceride của những acid palmitic và stearic ( 30 % ), oleic ( 25 % ), linoleic ( 45 % ) một lượng ít phytosterol ( delta 7 – phytosterol ), một hoạt chất sterol đặc hiệu giúp phòng ngừa và điều trị chứng rối loạn lipid máu, đồng thời làm chậm tiến triển bệnh xơ vữa động mạch, tăng cường miễn dịch và làm giảm rủi ro tiềm ẩn mắc một số ít loại bệnh về ung thư … Chính chất delta 7 – phytosterol quyết định hành động năng lực phòng ngừa và điều trị bệnh của hạt bí, tuy nhiên hàm lượng chất này lại phụ thuộc vào hầu hết vào điều kiện kèm theo khí hậu, thổ nhưỡng và thời vụ gặt hái .
Phytosterol không chỉ có ở trong hạt bí mà còn có trong đậu nành, ngũ cốc, dầu dừa và một số ít loại quả khác. Riêng phytosterol có nguồn gốc từ những loại hạt và đậu được coi là tốt nhất. Trung bình, trong 100 g, thì hạt bí có 265 mg phytosterol, còn ở đậu phụng là 270 – 289 mg .
Theo đông y, hạt bí ngô được gọi là nam qua tử, nam qua nhân hoặc bạch qua tử, hạt bí có vị ngọt, béo, tính bình, đi vào những kinh vị và đại trường. Tác dụng sát khuẩn, tẩy giun sán, làm dịu và giải nhiệt, giảm căng thẳng mệt mỏi thần kinh. Thường xuyên ăn hạt bí sẽ giúp trừ giun sán, dịu thần kinh và giúp cho hoạt động và sinh hoạt tình dục được cải tổ tốt hơn. Theo sách Trung dược thực đồ giám, hạt bí sao chín rồi sắc uống, dùng chữa phụ nữ bị phù tay chân sau khi sinh, và hỗ trợ cho diều trị đái tháo đường. Liều dùng mỗi ngày 60 – 120 g .
Nếu dùng để tẩy giun sán thì để cả vỏ, hoặc bỏ vỏ giã nát, hòa với nước sôi để nguội mà uống. Không luộc chín hạt bí, vì như vậy sẽ không còn tính năng .

Ngày nay, người ta biết thêm một số tác dụng của hạt bí như sau

– Giảm những triệu chứng của bệnh phì đại tiền liệt tuyến như giúp làm giảm số lần tiểu tiện đêm hôm, giảm thể tích nước tiểu tồn dư, cải tổ chứng khó tiểu, đi tiểu buốt và đi tiểu nhiều lần .
– Làm dịu thực trạng hoạt động giải trí quá mức của bàng quang – nguyên do gây tiểu són, tiểu rát và đái dầm thường gặp ở người cao tuổi, của cả hai giới .
– Hạt bí ngô có chứa kẽm, có tính năng làm tăng tỷ trọng khoáng chất cho xương, đặc biệt quan trọng là so với nhóm đàn ông trung niên. Một điều tra và nghiên cứu công bố trên Tạp chí Y học dinh dưỡng của Mỹ mới gần đây cho biết, sau khi nghiên cứu và điều tra ở 400 người đàn ông từ 45-92 tuổi, những nhà khoa học đã phát hiện thấy nhóm người có khẩu phần ăn kẽm thấp thì mức độ gãy xương háng và cột sống rất cao. Vì vậy, ăn hạt bí rất tốt cho việc ngăn ngừa căn bệnh nói trên ở đàn ông .

– Phòng ngừa và điều trị chứng rối loạn lipid máu, làm chậm tiến triển chứng xơ vữa động mạch.

Như vậy, hạt bí vừa là món ăn “ cho sung sướng ” trong mấy ngày Tết, lại có công dụng bảo vệ sức khỏe thể chất, giúp cho niềm tin sảng khoái, xuân tình vui tươi, thật là nhất cử lưỡng tiện .

                                                    Lương y Đinh Công Bảy
Tổng Thư ký Hội Dược liệu TP HCM

Exit mobile version