Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Từ, bi, hỷ, xã trong kinh Pháp cú – Phật giáo Quảng Nam

TỪ, BI, HỶ, XẢ trong KINH PHÁP CÚ

Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada) Ðức Phật khuyên dạy chúng sinh hãy chăm tu tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, tức là “bốn món tâm rộng lớn không lường được”, đó là các tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Phật dạy hãy mở rộng bốn tâm này, không hạn chế, cho tất cả các loài hữu tình ở khắp bốn phương. Đây là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện, là lối sống của bậc thánh.

Đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có Đạo Phật, ở đó có tình thương. Phương châm tu tập của Phật Giáo là từ, bi, hỷ, xả. Người Phật tử lấy từ, bi, hỷ, xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh; tâm từ bi được coi là tâm Phật. Tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác. Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị. Bốn món tâm rộng lớn không lường được nói trên nếu của Phật và các vị Bồ tát thời được xưng là “Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả”.

TÂM TỪ

“ Từ ” là lòng lành giúp ích cho người, lòng yêu dấu, thường đem vui cho toàn bộ chúng sinh. “ Tâm từ ” là cái gì làm cho lòng êm dịu, là lòng mong ước cho tổng thể chúng sinh đều được an lành vui tươi, lòng chân thành của người bạn hiền muốn cho bè bạn mình được an vui niềm hạnh phúc. trái lại với tâm từ là lòng “ sân hận ” .Tâm từ không phải là sự yêu thương thiên về xác thịt, về tình dục, cũng không phải là lòng trìu mến vị kỷ, lòng luyến ái so với người nào. Tâm từ không phân biệt kẻ thân người sơ, không dành riêng cho tình chiến sỹ, đồng chủng, cũng không dành riêng cho tình đồng hương hay đồng đạo. Hơn nữa tâm từ không phải chỉ nên có giữa người và người mà phải bao trùm toàn bộ chúng sinh, chính bới, loài cầm thú cũng cần đến sự giúp sức và tình thương .Nói tóm lại, tâm từ bát ngát, thoáng đãng, trải ra đồng đều so với chính mình cũng như so với những người thân cận, dù không quen biết, dù có ác cảm với mình. Người triển khai từ tâm đến mức độ cùng tột sẽ thấy mình đồng điệu với toàn bộ chúng sinh, không còn sự độc lạ giữa mình và người. Cái gọi là “ ta ” không còn nữa. Mọi sự chia rẽ đều biến mất như đám sương mù tan trong nắng sáng. Vạn vật trở thành một, đồng thể, giống hệt .Đức Phật dạy chỉ có tâm từ mới dập tắt được lòng sân hận, ác ý, thù oán. Không những dập tắt được lòng sân, tâm từ còn diệt được những mầm tư tưởng bất thiện. Nhìn thái độ của loài người so với hận thù, Ðức Phật đưa ra nhận xét là tình thương sẽ chinh phục được lòng sân hận. Ðể giảng hòa một cuộc tranh chấp giữa hai tiểu bang đang giành nhau nước dưới con sông làm ranh giới, Ðức Phật dạy 🙁 Pháp Cú 197 )

“Ở ngay giữa đám nhân sinh
Dù người hờn oán, nếu mình thảnh thơi
Sống không thù hận cùng người
Thật là sung sướng, cuộc đời thơm hương.”

Nhưng có lòng từ ái so với người khác không có nghĩa là phải quên mình. Lúc Ðức Phật sắp nhập Niết Bàn, những đệ tử từ bốn phương xa gần sinh động về đảnh lễ Ngài. Chỉ có một thầy Tỳ kheo lại rút về tịnh thất cần mẫn hành thiền. Khi được hỏi về thái độ ấy, thầy vấn đáp vì trong ba tháng nữa Đức Phật sẽ nhập diệt nên thầy nghĩ rằng để tỏ lòng quý trọng Ngài, việc làm tốt đẹp nhất là thành tựu đạo quả A La Hán lúc Ngài còn tại tiền. Ðức Phật ngợi khen thầy và nhấn mạnh vấn đề là “ Không nên vì tiềm năng của người khác mà quên lãng tiềm năng, sự an lành của chính mình. ” và hãy “ lập tâm thành đạt tiềm năng ấy ” :

“Chớ vì lợi ích cho người
Mà quên lợi ích cho nơi chính mình
Mục tiêu giải thoát tử sinh
Ai lo lợi ích cho mình chớ quên
Quyết tâm đạt được cho bền.”

( Pháp Cú 166 )Không nên hiểu nhầm là Đức Phật dạy ta nên ích kỷ, chớ có ship hàng kẻ khác một cách vị tha, bất cầu lợi. Trái lại Đức Phật chỉ nhấn mạnh vấn đề rằng trong khi ship hàng quyền lợi cho người cũng đừng quên tiềm năng tự giải thoát cho chính mình. Mình có giác ngộ và giải thoát rồi sau đó đi giúp kẻ khác mới hữu hiệu được hơn .

TÂM BI

“ Bi ” là lòng thương xót cứu khổ, thương dứt trừ đau khổ cho hết thảy chúng sinh. Bi là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của kẻ khác. Đặc tính của “ tâm bi ” là ý muốn giúp người khác thoát khỏi cảnh khổ. Tâm bi là vị thuốc hoàn toàn có thể tiêu trừ bệnh hung bạo. Lòng của người có tâm bi thật là mềm dịu. Lắm khi người có tâm bi không ngần ngại quyết tử đến cả tính mạng con người. Chính do nơi tâm bi mà con người hoàn toàn có thể trọn vẹn vị tha trong khi Giao hàng kẻ khác, giúp mà không khi nào mong đền ơn, đáp nghĩa .Đối tượng của tâm bi là những kẻ nghèo nàn, túng thiếu, đau ốm, đơn độc dốt nát, hư hèn và cả những người có đời sống buông lung, phóng đãng tội lỗi. Tâm bi phải bao trùm toàn bộ chúng sinh đau khổ, rất bát ngát và bình đẳng. Như Đức Phật xưa kia đã từng tế độ cho một người phụ nữ lạc bước giang hồ và cho cả một tên sát nhân gian ác, toan hại Ngài. Về sau, cả hai đều theo Ngài và trọn vẹn đổi tính. Bên trong mỗi người, dù xấu xa thế nào cũng ngầm có những tính tốt. Đôi khi chỉ có lời nói phải, đúng lúc, cũng hoàn toàn có thể làm đổi hẳn con người. Như vua A Dục thời xưa, tàn khốc đến nỗi, người đời bấy giờ gọi là “ A Dục, con người tội lỗi ”. Thế mà, khi nghe được lời nói phải của một thầy Sa di trẻ tuổi, ông đổi hẳn lại tính tình, mạnh tiến trên con đường tự giác và trở thành “ A Dục, con người hiền lành ”. Ta nên đánh giá và nhận định rằng, tâm bi của Phật giáo không phải là giọt nước mắt nhỏ suông gọi là thương xót. Kẻ thù gián tiếp của tâm bi là “ âu sầu buồn bã, phiền não ” .Tâm Từ và Tâm Bi thường đi chung với nhau. Trước hết phải dùng tâm bi để trừ giùm đau khổ cho chúng sinh, rồi kế đó dung tâm từ mà cho họ niềm vui. Như thế, cái vui mới được trọn vẹn. Vậy “ bi ” là nhân mà “ từ ” là quả. Người sống có tâm từ bi, có tình thương thì mọi hận thù trên trần gian này sẽ tiêu tan .Một người có hai bà vợ. Một bà có con và một bà không. Bà không con đem lòng ganh tị, trộn thuốc độc vào thức ăn của bà kia, hại bà kia hai lần hư thai. Ðến lần thứ ba, thuốc độc làm cho bà kia đang có mang cùng chết với đứa bé. Bà kia khởi tâm cương quyết trả thù và thực hành thực tế dự tính. Bà không con bị trả thù, cũng quyết tâm trả thù lại. Thù oán trả qua trả lại, hết bà này đến bà kia, qua lại trong hai kiếp sống liên tục. Tuy nhiên, đến kiếp tái sinh thứ ba, thời cơ đưa đẩy hai bà cùng đến gặp Ðức Phật và sau đó nhờ Ngài khuyên giải mà hận thù được chấm hết :

“Khắp nơi trong cõi dương gian
Hận thù đâu thể xua tan hận thù
Chỉ tình thương với tâm từ
Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm
Đó là định luật ngàn năm.”

( Pháp Cú 5 )Cô hầu nhỏ của một ông chồng nọ bất chợt đem lòng ganh tị bà vợ lớn. Một lần cô đem đổ bơ nóng lên đầu bà nhưng bà không giận mà còn giải lòng từ bi đến cô, nguyện rằng mình không sân hận, khiến cho bơ nguội lạnh, bà không bị phỏng. Về sau, cô hầu nhỏ ăn năn hối hận và xin sám hối. Bà bảo cô phải lên xin sám hối với Ðức Phật trước bà mới bằng lòng quên lỗi. Cô làm theo lời bà và được Ðức Phật khuyên rằng “ Hãy lấy tình thương mà kìm hãm tâm sân, lấy chân thực khắc phục giả dối ” :

“Lấy từ bi, lấy ôn hòa
hắng cơn nóng giận bùng ra thét gầm
Lấy hiền lành, lấy thiện tâm
Thắng lòng hung ác bất nhân khó lường
Lấy tâm bố thí cúng dường
Thắng hàng keo kiệt, thắng phường tham lam
Lấy chân thật để đập tan
Những trò hư ngụy, dối gian ở đời.”

( Pháp Cú 223 )

TÂM HỶ

“ Hỷ ” là lòng vui, tự mình vui và mừng giùm cho người được điều thiện. Hay muốn nói cho đủ là tùy hỷ : vui theo, cùng vui với người khác. Phản nghĩa của hỷ là “ ưu tư ”. Hỷ không phải là trạng thái thỏa thích suông, cũng không phải là tình cảm riêng so với một người nào. Hỷ là lòng cùng vui thích với người khác khi họ có niềm hạnh phúc hay họ được thành công xuất sắc, nhất là khi sự thành công xuất sắc ấy tiến về nẻo thiện, hướng đến mục tiêu giải thoát. Lòng “ ganh tị ” là quân địch trực tiếp của hỷ. Nhiều người lấy làm bực tức khi thấy người khác thành công xuất sắc hay vui khi thấy người khác thất bại. Chính tâm hỷ làm tiêu tan lòng ganh tị đó .Người có tâm hỷ sẽ trực tiếp hưởng nhiều quyền lợi do tâm ấy đem lại cho mình hơn cả người khác. Nếu so sánh với tâm từ và tâm bi, tâm hỷ lại càng khó thực thi. Muốn có tâm hỷ, phải có ý chí can đảm và mạnh mẽ và rất là nỗ lực. Để tạo sự an vui, niềm hạnh phúc trong đời sống cá thể cũng như tập thể và vươn mình lên sống đời trong sáng, hùng vĩ, người Phật tử nên thực hành thực tế tâm hỷ .

Một Sa di, con của người gác cửa, nói xấu về tâm bố thí của tất cả các thiện tín đến chùa, từ đại thí chủ như ông Cấp Cô Độc đến vua Ba Tư Nặc, ngoại trừ những người có họ hàng với chú. Vài vị Sư khác bạch lại vớí Đức Phật về tác phong thấp hèn của chú Sa di, Đức Phật dạy “Người nào đem lòng khen chê, bất mãn và đố kỵ về những phẩm vật bố thí thì tâm người ấy chưa được an tịnh. Người bỏ được tính đố kỵ, ganh ghét và không so đo hơn thua thì tâm lúc nào cũng an tịnh”:

“Do lòng tin, bởi niềm vui
Người người bố thí, nơi nơi cúng dường
Kẻ mà tâm xấu buông lung
Thấy ai được hưởng, trong lòng ghét ganh
Ngày đêm sẽ mãi quẩn quanh
Không hề an tịnh tâm mình được lâu.”

( Pháp Cú 249 )

“Chỉ riêng người hiểu pháp mầu
Nên lòng ganh ghét trước sau diệt trừ
Ngày đêm hương đạo thơm đưa
Cõi lòng an tịnh, tâm tư thanh nhàn.”

( Pháp Cú 250 )

TÂM XẢ

“ Xả ” là lòng buông xả ra mọi vật của mình cho tổng thể chúng sinh không phân biệt kẻ oán người thân trong gia đình. Xả là bố thí, bỏ đi, không chấp, không ghi giữ trong lòng. Xả là trông thấy đúng đắn, đánh giá và nhận định chân chính, suy luận vô tư, tức là không ghét bỏ cũng không luyến ái ; không ưa thích cũng không bất mãn. Phản nghĩa của “ tâm xả ” là “ cố chấp ” .Người hùng vĩ luôn giữ tâm bình thản trước sự khinh rẻ, phỉ báng, nguyền rủa. Giữa cuộc thăng trầm của trần gian đó, Đức Phật dạy ta nên luôn bình thản, hành tâm xả, vững chãi như tảng đá sừng sững giữa trời, vững như voi, như mãnh hổ. Ví như gió thổi ngang màn lưới mà không bị vướng trong lưới, tuy sống giữa chợ người mà ta không luyến ái những lạc thú hão huyền và vô thường của cuộc sống. Như hoa sen từ bùn nhơ nước đục vươn lên, tất cả chúng ta cũng vượt lên bao nhiêu điệu đàng của trần gian để sống trong sáng, tinh khiết, luôn luôn bình tĩnh và an vui .Kẻ thù trực tiếp của xả là “ luyến ái ” và quân địch gián tiếp của tâm xả là sự “ lãnh đạm ”. Tâm xả lánh xa lòng tham ái và trạng thái bất mãn. Thái độ vô tư, thản nhiên, an tịnh là đặc tính quan trọng của tâm xả. Người có tâm xả không thú vị trong vui sướng cũng không bực tức trong phiền não. Người có tâm xả đối xử đồng đều giữa kẻ tội lỗi và bậc thánh nhân. Đức Phật luôn khen ngợi, khuyến khích hàng đệ tử thực hành thực tế tâm xả .Xả có bốn thứ. Nếu đem cho người ta vật phẩm, của cải thời gọi là “ tài xả ”. Nếu đem giáo pháp, giáo lý cho người thời gọi là “ pháp xả ”. Nếu đem đức không sợ hãi cho người thời gọi là “ vô úy xả ”. Còn tự mình xả bỏ tổng thể những mối phiền não thời gọi là “ phiền não xả ” .Một Tỳ kheo có thói xấu hay moi móc lỗi lầm của người khác để chê bai. Đức Phật dạy “ Nếu có ai nói rõ lỗi lầm của người khác và chỉ dạy cho họ cách sửa chữa thay thế lại thì đó chẳng phải là một hành vi xấu ác đáng chê trách. Trái lại nếu có kẻ nào luôn luôn chỉ trích chỗ sai lầm đáng tiếc của người khác với dự tính hiểm độc để nói xấu thời những người như vậy không khi nào đạt được giác ngộ mà chỉ có sự ô nhiễm tăng trưởng trong họ mà thôi ” :

“Nếu ta thấy được lỗi người
Tâm ta nóng giận tức thời dễ sinh
Tăng thêm phiền não thật nhanh,
Xa lìa an tịnh, quẩn quanh muộn sầu,
Lỗi người chẳng để tâm lâu
Còn chi sầu muộn, còn đâu não phiền.”

( Pháp Cú 253 )Vài thầy Sa di không biết nên theo phá khuấy một vị A La Hán khả kính vì thân hình ngài nhỏ bé thấp lùn. Khi được biết vị thánh tăng tính tình hiền hòa, chẳng hề tức giận, vẻ mặt luôn bình thản, không chút xao động, Ðức Phật dạy rằng chư vị A La Hán giữ mình luôn luôn bình thản trước những lời tán dương hay khiển trách :

“Gió nào lay núi đá cao
Và người trí lớn khác nào núi kia
Tiếng đời trần tục khen chê
Tán dương, phỉ báng, dễ gì động tâm.”

( Pháp Cú 81 )Theo lời mời của một vị Bà La Môn, Ðức Phật và những môn đệ Ngài đến định cư kiết hạ tại làng của ông ta nhưng những ngài lắm lúc bị bỏ lửng, không được chăm nom đến, vì vị thí chủ này quên lãng, hơn thế nữa dân làng địa phương lúc đó đang bị nạn đói kém trầm trọng. Các ngài nhiều lúc phải dùng lúa cho ngựa ăn nhưng không có ai vì đó mà buồn ý, vẫn tinh tấn tu tập. Ðến khi trở về tịnh xá Kỳ Viên những ngài được phân phối thực phẩm chu đáo nhưng cũng không vì đó mà tỏ ra thỏa thích quá độ. Ðức Phật quan tâm rằng người thiện trí vượt lên trên mọi xúc động thường tình, không khi nào bồng bột, cũng không khi nào để niềm tin suy sụp, luôn bình tĩnh trước mọi việc xảy ra :

“Người lành thường mãi lìa xa
Mọi điều dục lạc bỏ qua chẳng bàn,
Người hiền trí gặp vui buồn
Dù đầy hạnh phúc, hay tràn khổ đau
Không hề dao động trước sau
Tinh thần luôn vững, há nào mừng lo.”

( Pháp Cú 83 )Một bà tín nữ có ý muốn thỉnh năm vị Tỳ kheo lão thành về nhà trai tăng. Nhưng tịnh xá lại cử đi năm vị Sa di trẻ tuổi đến nhà bà thọ thực nên bà không vui, tỏ vẻ không tôn kính và không dâng cúng vật thực đúng thời khiến những vị Sa di bị đói khát. Về sau bà mới nhận ra phẩm hạnh của những vị Sa di, mặc dầu không được tiếp đãi nồng hậu, vẫn không hề tỏ ra bất mãn. Khi nghe thuật lại câu truyện, Ðức Phật dạy :

“Tỏ ra thân thiết chân tình
Giữa người thù nghịch quanh mình gần xa,
Tỏ ra thiện chí ôn hòa
Với người tính khí thật là hung hăng,
Không còn luyến ái vương mang
Bên người cố chấp buộc ràng vây quanh,
Bà La Môn thật xứng danh.”

( Pháp Cú 406 )Một ông vua lấy làm tuyệt vọng và âu sầu buồn bã vì đã bị bại trận ba lần. Ông không thắng nổi kẻ địch là người cháu gọi mình bằng cậu. Người cháu đó là vua A Xà Thế. Ông vua bại trận bỏ cả nhà hàng siêu thị, cứ nằm dài mãi trên giường. Ðức Phật dạy rằng muốn an vui, chớ ham tranh thắng bại. “ Kẻ thắng lợi gây thêm thù hận. Còn người thất trận phải chịu khổ đau ảo não ”. Sống an hòa là thái độ tốt nhất :

“Khi mà thắng lợi vẻ vang
Sinh ra thù oán ngập tràn. Nguy thay!
Khi mà thất bại chua cay
Sinh ra đau khổ chất đầy tâm can!
Chi bằng thắng bại chẳng màng
Cuộc đời tịnh lạc, bình an vô cùng.”

( Pháp Cú 201 )

Hỷ và Xả là hai hạnh lành, có tương quan mật thiết, làm nhân làm quả cho nhau. Xả làm nhân cho hỷ, nghĩa là muốn vui theo với người, muốn làm cho người vui, thì trước tiên mình phải đừng chấp, phải xả bỏ những điều ngang trái, những điều thiệt thòi sỉ nhục mà người khác đã làm cho ta.

Trong những truyện về “ Tiền thân Đức Phật ” ta thấy Ngài từng xả bỏ thân mạng mà tương hỗ chúng sinh. Khi được làm Bồ Tát trên cung trời Đâu Suất, Ngài xả bỏ những sự vui sướng nơi thiên cung mà giáng sinh cứu thế. Trước kia khi còn là một hoàng tử sắp lên ngôi vua, Ngài xả bỏ toàn bộ đền đài hoàng cung, châu báu ngọc ngà, vợ đẹp con khôn, quyền cao chức trọng để mà một thân một mình ra đi tu hành khắc khổ .Người tu hành phải tập xả dần, xả toàn bộ. Con tằm sở dĩ thành bướm bay lượn đó đây, vì nó đã rời bỏ cái kén, dù đó là một cái kén bằng tơ vàng óng ánh, ấm cúng, xinh xắn mịn màng vô cùng. Nhưng xả mà còn buồn rầu hụt hẫng cho cái mà mình đã bỏ đi thì xả như vậy không có ích gì. Xả phải song song với hỷ. Phải xả với vẻ mặt hân hoan, vui mừng như người tù khi tháo gỡ xiềng xích .

Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xuân Canh Tý 2020)

Exit mobile version