Xăm là một hình thức ghi dấu bằng mực, từ đó làm thay đổi sắc tố da, vì nhu cầu thẩm mỹ, tạo ấn tượng hoặc những mục đích khác. Xăm ở người là một loại hình nghệ thuật cơ thể trong khi xăm ở động vật thường để nhận biết và đánh dấu là vật sở hữu.
Nghệ thuật xăm Open thoáng rộng trên toàn quốc tế : người Ainu ở Nhật Bản, người Berber ở Bắc Phi, người Maori ở New Zealand, những bộ lạc ở vùng đào Thái Bình Dương, Châu Mỹ, Châu Âu, Philippin, Campuchia, … Bất chấp những điều cấm kỵ xung quanh việc xăm mình, thẩm mỹ và nghệ thuật này vẫn trở thành một phần phổ cập trên quốc tế .
Hình xăm xuất hiện nhiều trong nghệ thuật, bên trên là bức vẽ quảng bá cho một bài hát được thiết kế và minh họa bởi nhà minh họa người Nhật Anh Konge.
Bạn đang đọc: Xăm – Wikipedia tiếng Việt
Đối với những định nghĩa khác, xem Xăm ( xu thế )
Vào năm 1769, các thủy thủ của thuyền trưởng James Cook và sau đó là thủy thủ của bá tước người Pháp Bougainville đã bị mê hoặc bởi nghệ thuật Tatau lạ mắt – vẽ trên cơ thể – của thổ dân các quần đảo nam Thái Bình Dương nơi họ đi qua. Và chính từ Tatau đó là xuất xứ của từ tattoo (tiếng Anh) và tatouage (tiếng Pháp) có nghĩa là xăm mình. Xăm trở nên phổ biến trong cộng đồng những người thuỷ thủ, sau đó đã lan rộng khắp châu Âu.
Thẩm mỹ, tôn giáo.
Tục xăm mình đã phát triển để thực sự trở thành một thứ văn hóa cộng đồng như xăm vật tổ để nhận biết những người cùng trong một bộ lạc, cách đánh dấu này phổ biến ở rất nhiều dân tộc ít người. Một số bộ tộc trên thế giới đánh dấu sự trưởng thành của mỗi thiếu niên bằng nghi lễ xăm mình sau chuyến đi săn thành công đầu tiên. Tại Papua New Guinea, phụ nữ Maisin được xăm trong nghi lễ dậy thì, ai chưa xăm được coi là không có thần sắc và chưa sẵn sàng kết hôn. Ngày nay, phụ nữ xăm để thẩm mỹ, làm đẹp như: xăm lông mày, xăm môi, xăm mắt… Giới trẻ xăm mình như một xu hướng khẳng định cá tính.
Những hình xăm cũng để Giao hàng cho những nghi lễ chuyển giao, là tín hiệu của vị thế và quý phái, là hình tượng của niềm tin tâm linh, sùng bái tôn giáo, lòng mộ đạo, là sự trang hoàng cho lòng gan góc, những mê hoặc giới tính, là tín hiệu của phồn thực, vật bảo vệ cho tình yêu, là bùa hộ mệnh, là tín hiệu của tù nhân và nô lệ …
Xăm mình được cho phép khẳng định chắc chắn vị thế xã hội. Vào thế kỷ 19, giới quý tộc Anh và bậc vua chúa như Nga hoàng Nicolas II, những nhà vua Thụy Điển và Đan Mạch đã sang Nhật để xăm hình những con rồng. Nhưng ngược lại, tại Nhật, dân xăm mình lại là những thành phần thấp kém trong xã hội lúc đó như lính cứu hỏa, người giữ ngựa. Ngày nay, chỉ còn lại những gangster Nhật – những yakuza – là còn giữ truyền thống lịch sử xăm mình .
Các triều đại phong kiến châu Á từng xử tội nạn nhân bằng xăm mình. Nước Trung Quốc thời phong kiến từng xem việc xăm mình là một bộc lộ của sự dã man. Nhiều triều đại vua chúa đã dùng hình thức này để trừng phạt những kẻ phạm tội. Đến sau thế kỷ thứ 6, việc xăm mình còn được dùng để lưu lại nhằm mục đích giúp nhận dạng nhanh hơn những tội phạm và những tù nhân bị lưu đày. Các phạm nhân tội nặng khi đó, thay vì bị xẻo tai hay bị chặt một bàn tay như trước kia, sẽ bị ghi lại bằng cách xăm chữ lên mặt cho biết nơi họ đã phạm tội. Họ sẽ bị tách khỏi mái ấm gia đình, hội đồng và không còn vị trí xã hội .Tại Nhật Bản, việc trừng phạt phạm nhân bằng hình thức xăm mình đã có vào năm 720 sau Công nguyên. Khi đó, Nhật Hoàng đã giảm tội chết cho một thủ lĩnh làm mưa làm gió xuống thành hình phạt xăm mình. Đến thế kỷ 17, việc xăm mình trị tội được thay thế sửa chữa bằng những hình phạt khác và nhà nước phong kiến đã cố gắng nỗ lực dẹp bỏ nó .
Người Việt cổ.
Sách Lĩnh Nam chích quái (phần Hồng Bàng thị truyện) viết như sau: Bấy giờ, dân trên núi xuống nước đánh bắt cá thường bị thuồng luồng gây thương tổn, bèn cùng nhau tâu việc ấy với Vua. Vua nói: Các giống ở trên núi khác với các loài ở dưới nước. Các loài ở dưới nước chỉ ưa những gì giống với mình và ghét những gì khác mình, vì vậy, ta mới bị gây hại. Nói rồi, Vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thuỷ quái vào người. Từ đó, không bị thuồng luồng gây thương tích nữa. Tục vẽ mình của dân Bách Việt bắt đầu có kể từ đấy.
Đặc biệt thời Trần, những thành viên thuộc đội quân Thánh Dực bảo vệ xa giá sẽ được xăm lên trán ba chữ Thiên Tử Quân (Quân đội Thiên Tử). Nghệ thuật này còn được thấy rõ rệt dưới triều đại này với việc xăm hai chữ Sát Thát (Giết giặc Tarta) trong thời kỳ kháng chiến chống Nguyên Mông, thể hiện sự quyết tâm đồng lòng chiến đấu, bảo vệ giang sơn của cha ông ta. Thường những người xăm trổ thời ấy đều là những chiến binh dũng cảm và can trường, họ xăm trổ để thể hiện sức chịu đựng và chí hướng của mình. Nhiều người dân cũng thường cũng xăm lên bụng những chữ Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc thể hiện tinh thần thượng võ.
Xem thêm: Người Chăm – Wikipedia tiếng Việt
Một số bộ lạc có tập tục tạo ra những hình xăm bằng việc vẽ lên da, mực xăm được làm từ bồ hóng hoặc than củi nghiền vụn, hoàn toàn có thể bỏ vào xương động vật hoang dã nghiền nát. Để tạo đường nét, nghệ sĩ gắn những mẩu tre hoặc kim khâu vào một cái que. Sau khi nhúng chúng vào sắc tố, họ dùng vồ đóng nhẹ chúng vào da .Ở Ấn Độ và 1 số ít nước Nam Á, Trung Đông thông dụng tục xăm mình Mehndi với mực xăm đều được chiết xuất từ những bộ phận trên cây lá móng. Các gam màu khác nhau được chiết xuất từ những bộ phận khác nhau trên cây lá móng : lá, hoa hoặc cành. Lá, hoa hoặc cành lá móng được nghiền nhỏ thành bột sau đó trộn với nước nóng. Để có những gam màu khác, người ta đem trộn lẫn hợp chất này với bột 1 số ít lá cây khác, ví dụ điển hình lá chàm, lá chè xanh, bột cafe, lá me, chanh, đường, thi thoảng có pha thêm một số ít loại dầu khác để tăng độ bền và bóng của màu .
Năm 1891, thẩm mỹ và nghệ thuật xăm đã sang trang mới khi Samuel O’Reilly ở thành phố Thành Phố New York sáng tạo ra chiếc ” máy khắc da chạy bằng điện ” tiên phong. Đây chính là cha đẻ của chiếc máy xăm vẫn sử dụng cho đến ngày này .
Liên kết ngoài.
Source: http://139.180.218.5
Category: Nhạc chế