K-pop (tiếng Triều Tiên: 케이팝; Romaja: keipap), viết tắt của cụm từ tiếng Anh Korean popular music tức nhạc pop tiếng Hàn hay nhạc pop Hàn Quốc, là một thể loại âm nhạc bắt nguồn từ Hàn Quốc như một phần của văn hóa Hàn Quốc.[1] Nó bị ảnh hưởng bởi các phong cách và thể loại từ khắp nơi trên thế giới, chẳng hạn như pop, experimental, rock, jazz, phúc âm, hip hop, R&B, reggae, EDM, dân gian, đồng quê và cổ điển dựa trên nguồn gốc âm nhạc truyền thống Hàn Quốc.[2] Hình thức hiện đại hơn của thể loại này xuất hiện với sự hình thành của một trong những nhóm nhạc K-pop đời đầu, nhóm nhạc nam Seo Taiji and Boys, vào năm 1992. Việc họ thử nghiệm các phong cách và thể loại âm nhạc khác nhau và tích hợp các yếu tố âm nhạc nước ngoài đã giúp định hình lại và hiện đại hóa nền âm nhạc đương đại của Hàn Quốc.[3]
Văn hóa “thần tượng” K-pop hiện đại bắt đầu từ những năm 1990, khi K-pop phát triển thành một nền văn hóa phụ thu hút rất nhiều cộng đồng người hâm mộ của thanh thiếu niên và thanh niên.[4][5] Sau một thời gian sa sút trong giai đoạn đầu của K-pop, từ năm 2003, TVXQ và BoA đã bắt đầu một thế hệ thần tượng K-pop mới, phá vỡ thể loại âm nhạc này vào thị trường láng giềng Nhật Bản và tiếp tục phổ biến K-pop ra quốc tế ngày nay.[6][7] Với sự ra đời của các dịch vụ mạng xã hội trực tuyến và các chương trình truyền hình Hàn Quốc, sự lan rộng hiện nay của K-pop và giải trí Hàn Quốc, được gọi là Làn sóng Hàn Quốc, không chỉ được nhìn thấy ở Đông Á và Đông Nam Á, mà còn ở Pakistan, Bangladesh, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Bắc Phi, Nam Phi và Đông Phi, Trung Đông và khắp thế giới phương Tây, thu hút được khán giả quốc tế.
Bạn đang đọc: K-pop.
Thuật ngữ “K-pop” trở nên phổ biến vào những năm 2000. Trước đây, nhạc pop của Hàn Quốc được gọi là gayo (가요),[8][9] còn ở Việt Nam quen gọi là nhạc Hàn. Trong khi “K-pop” là một thuật ngữ chung cho âm nhạc phổ biến ở Hàn Quốc, nó thường được sử dụng với nghĩa hẹp hơn cho thể loại được mô tả ở đây. Trong năm 2018, K-pop đã có sự tăng trưởng đáng kể và trở thành một “người chơi quyền lực”, đánh dấu mức tăng trưởng doanh thu 17,9%. Tính đến năm 2019, K-pop được xếp ở vị trí số 6 trong số 10 thị trường âm nhạc hàng đầu trên toàn thế giới theo “Global Music Report 2019” của Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm Quốc tế, với BTS và Blackpink được coi là nghệ sĩ dẫn đầu thị trường.[10] Vào năm 2020, K-pop đã trải qua một năm kỷ lục khi tăng trưởng 44,8% và khẳng định vị thế là thị trường lớn phát triển nhanh nhất trong năm.[11]
Nội dung chính
- 0.1 Nội dung nghe nhìn.
- 0.2 Đào tạo nghệ sĩ có mạng lưới hệ thống.
- 0.3 Thể loại tích hợp và giá trị xuyên vương quốc.
- 0.4 Thập niên 1980 : Kỷ nguyên nhạc ballad.
- 0.5 Thập niên 1990 : Sự tăng trưởng của nhạc K-pop tân tiến.
- 0.6 Thế kỷ 21: Sự trỗi dậy của làn sóng Hallyu .
- 0.7 Sức hút và hội đồng người hâm mộ.
- 0.8 Truyền thông xã hội.
- 1 Nhạc Hàn lời Việt.
- 2 Danh sách nghệ sĩ K-pop.
- 3 Liên kết ngoài.
Nội dung nghe nhìn.
Mặc dù K-pop thường dùng để chỉ nhạc pop của Hàn Quốc, nhưng một số người coi đây là một thể loại tổng hợp thể hiện nhiều yếu tố âm nhạc và hình ảnh.[12][nguồn không đáng tin?] Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (Institut national de l’audiovisuel) định nghĩa K-pop là “sự kết hợp của âm nhạc tổng hợp, các điệu nhảy sắc nét và những bộ trang phục thời trang, đầy màu sắc”.[13] Các bài hát thường bao gồm một hoặc hỗn hợp thể loại pop, rock, hip hop, R&B và nhạc điện tử.
Đào tạo nghệ sĩ có mạng lưới hệ thống.
Các công ty quản lý Hàn Quốc đưa ra những hợp đồng ràng buộc với các nghệ sĩ tiềm năng, đôi khi ở độ tuổi còn trẻ. Các thực tập sinh sống cùng nhau trong một môi trường quy định và dành nhiều giờ mỗi ngày để học hát, nhảy, nói ngoại ngữ và các kỹ năng khác để chuẩn bị cho sự ra mắt của họ. Hệ thống đào tạo kiểu “robot” này thường bị các hãng truyền thông phương Tây chỉ trích.[14] Vào năm 2012, The Wall Street Journal báo cáo rằng chi phí đào tạo một thần tượng Hàn Quốc bởi SM Entertainment được ước tính trung bình khoảng 3 triệu USD.[15]
Thể loại tích hợp và giá trị xuyên vương quốc.
Nhiều công ty đã ra mắt những nhóm nhạc thần tượng mới với người theo dõi trải qua một ” debut showcase “, gồm có tiếp thị trực tuyến và tiếp thị trên truyền hình thay vì phát thanh. [ 20 ] Các nhóm được đặt tên và ” concept “, cùng với một câu truyện tiếp thị. Những khái niệm này là loại chủ đề hình ảnh và âm nhạc mà những nhóm nhạc thần tượng sử dụng khi ra đời hoặc trở lại. [ 21 ] Các khái niệm hoàn toàn có thể đổi khác giữa những lần ra đời và người hâm mộ thường phân biệt giữa khái niệm nhóm nhạc nam và nhóm nhạc nữ. Các khái niệm cũng hoàn toàn có thể được chia thành khái niệm chung và khái niệm chủ đề, ví dụ điển hình như dễ thương và đáng yêu hoặc tưởng tượng. Các nhóm nhạc thần tượng mới thường sẽ ra đời với concept nổi tiếng trên thị trường để bảo vệ một màn ra đời thành công xuất sắc. Đôi khi những đơn vị chức năng nhỏ hoặc nhóm nhỏ được hình thành giữa những thành viên hiện có. Hai nhóm nhỏ ví dụ là Super Junior-K. R.Y., gồm có những thành viên Kyuhyun, Ryeowook và Yesung của Super Junior, và Super Junior-M, sau này trở thành một trong những nhóm nhỏ K-pop cháy khách nhất ở Trung Quốc. [ 22 ]
Tiếp thị trực tuyến bao gồm các video âm nhạc được đăng lên YouTube để tiếp cận khán giả trên toàn thế giới.[20] Trước video thực tế, nhóm đã phát hành ảnh teaser và trailer. Các chu kỳ khuyến mại của các đĩa đơn tiếp theo được gọi là comeback ngay cả khi nhạc sĩ hoặc nhóm được đề cập không bị gián đoạn.[23]
[24]Điệu nhảy cho ” Gangsta “, một bài nhảy điện tử của Noir, gồm có điểm nhấn vũ đạo .
Vũ đạo là một phần không thể thiếu của K-pop. Khi kết hợp nhiều ca sĩ, các ca sĩ thường chuyển đổi vị trí của họ trong khi hát và nhảy bằng cách thực hiện các chuyển động nhanh chóng đồng bộ, một chiến lược được gọi là “thay đổi đội hình” (tiếng Triều Tiên: 자리바꿈, chuyển tự Jaribaggum).[25] Vũ đạo K-pop (tiếng Triều Tiên: 안무, chuyển tự Anmu) thường bao gồm cái gọi là “điểm nhấn vũ đạo” (tiếng Triều Tiên: 포인트 안무), đề cập đến một điệu nhảy được tạo thành từ các chuyển động nối tiếp và lặp đi lặp lại trong vũ đạo phù hợp với đặc điểm của lời bài hát.[26][27] “Sorry Sorry” của Super Junior và “Abracadabra” của Brown Eyed Girls là những ví dụ về những bài hát có “điểm nhấn” vũ đạo đáng chú ý. Để dàn dựng một điệu nhảy cho một bài hát, biên đạo phải tính đến nhịp độ.[28] Theo Ellen Kim, một vũ công kiêm biên đạo múa ở Los Angeles, khả năng thực hiện các bước nhảy tương tự của một người hâm mộ cũng phải được xem xét. Do đó, các biên đạo múa K-pop phải đơn giản hóa các động tác.[28]
Sự xuất hiện của Seo Taiji and Boys vào năm 1992 đã mở đường cho sự phát triển của các nhóm nhạc K-pop đương đại.[32] Nhóm đã cách mạng hóa nền âm nhạc Hàn Quốc bằng cách kết hợp các quy ước nhạc rap và hip hop của Mỹ vào âm nhạc của họ.[33] Việc áp dụng phong cách phương Tây này đã mở rộng sang thời trang của nhóm nhạc nam: các thành viên áp dụng gu thẩm mỹ hip hop.[34] Seo Taiji và trang phục của các thành viên trong ban nhạc cho chu kỳ quảng bá của “Nan Arayo” (난 알아요, I Know) bao gồm thời trang dạo phố sôi động như áo phông và áo nỉ quá khổ, áo gió, quần yếm mặc một dây, quần yếm xắn lên một ống quần và áo thi đấu của đội thể thao Mỹ.[cần dẫn nguồn] Phụ kiện bao gồm mũ bóng chày đeo ngược, mũ xô và do-rags.[cần dẫn nguồn]
Như K-pop “được sinh ra từ các xu hướng hậu Seo Taiji”,[34] nhiều nghệ sĩ theo sau Seo Taiji and Boys đã áp dụng cùng một phong cách thời trang. Deux và DJ DOC cũng có thể được nhìn thấy mặc quần áo thời trang hip hop theo xu hướng như quần baggy đáy xệ, đồ thể thao và quấn khăn trong các buổi biểu diễn của họ.[cần dẫn nguồn] Với việc âm nhạc đại chúng của Hàn Quốc trở thành phương tiện truyền thông chiếm ưu thế trong giới trẻ, các nhóm nhạc thần tượng tuổi teen được sản xuất bắt đầu ra mắt vào giữa và cuối thập niên 1990,[32] mặc trang phục phối hợp,[35] điều đó phản ánh xu hướng thời trang thịnh hành của giới trẻ vào thời điểm đó. Thời trang hip hop, được coi là phong cách phổ biến nhất vào cuối thập niên 90,[36] còn lại, với các nhóm nhạc thần tượng H.O.T. và Sechs Kies mặc phong cách cho các bài hát đầu tay của họ. Việc sử dụng phụ kiện nâng tầm phong cách của thần tượng từ thời trang hàng ngày đến trang phục biểu diễn, như kính trượt tuyết (đeo quanh đầu hoặc cổ), tai nghe đeo quanh cổ và găng tay quá khổ đeo để làm nổi bật các động tác vũ đạo đã được sử dụng rộng rãi.[cần dẫn nguồn] Bản hit “Candy” năm 1996 của H.O.T. thể hiện mức độ phối hợp có tính đến trang phục của thần tượng, vì mỗi thành viên đều mặc một màu được chỉ định và trang bị phụ kiện bằng sơn mặt, găng tay quá khổ mờ, kính che mặt, mũ xô, bịt tai và thú nhồi bông đã qua sử dụng, ba lô và túi xách làm đạo cụ.
Trong khi trang phục của các nhóm nhạc thần tượng nam được thiết kế với cách phối màu, chất liệu vải và phong cách tương tự nhau thì trang phục của mỗi thành viên vẫn giữ được cá tính riêng.[37] Mặt khác, các nhóm nhạc nữ của thập niên 90 mặc trang phục đồng nhất, thường được tạo kiểu giống hệt nhau.[37] Trang phục của các nữ thần tượng trong thời gian đầu quảng bá thường tập trung vào việc khắc họa hình ảnh ngây thơ, trẻ trung.[38] Lần ra mắt đầu tiên của S.E.S. vào năm 1997, “I’m Your Girl”, và album thứ hai của Baby Vox năm 1998, “Ya Ya Ya”, có các cô gái mặc trang phục màu trắng, “To My Boyfriend” của Fin.KL thể hiện thần tượng trong trang phục màu hồng trang phục nữ sinh, và “One” và “End” của Chakra trình bày trang phục theo phong cách Ấn Độ giáo và châu Phi. Để khắc họa hình ảnh tự nhiên và có phần ma mị, các phụ kiện chỉ giới hạn ở những chiếc nơ lớn, đồ trang trí trên tóc và dây buộc tóc. Với sự trưởng thành của các nhóm nhạc nữ và sự loại bỏ của bubblegum pop vào cuối thập niên 1990, các nhóm nhạc nữ tập trung vào việc chạy theo xu hướng thời trang bấy giờ, trong đó có nhiều bộ trang phục hở hang. Các hoạt động quảng bá mới nhất của các nhóm nhạc nữ Baby Vox and Jewelry thể hiện các xu hướng đang hot này của quần dài, váy ngắn siêu nhỏ, áo crop top, áo cánh nông dân, hàng may mặc trong suốt và áo cánh ở phần trên của thân áo.[cần dẫn nguồn]
Khi K-pop trở thành sự tích hợp tân tiến giữa văn hóa truyền thống phương Tây và châu Á mở màn từ cuối thập niên2000, [ 39 ] khuynh hướng thời trang trong K-pop cũng phản ánh sự phong phú và độc lạ. Các khuynh hướng thời trang từ cuối thập niên 2000 đến đầu thập niên 2010 phần nhiều hoàn toàn có thể được phân loại theo những mục sau : [ 40 ]
- Đường phố: tập trung vào tính cá nhân; có màu sắc tươi sáng, kiểu dáng kết hợp và kết hợp, hình in đồ họa và các nhãn hiệu thể thao như Adidas và Reebok.
- Retro: nhằm mục đích gợi lại “hoài niệm” từ những năm 1960-1980; có họa tiết dấu chấm và hoa văn chi tiết. Các mặt hàng quần áo phổ biến bao gồm áo khoác denim, quần ống rộng, quần ống rộng, băng đô, khăn quàng cổ và kính râm.
- Gợi cảm: làm nổi bật sự nữ tính và nam tính; có trang phục hở hang làm bằng sa tanh, ren, lông thú và da. Các mặt hàng quần áo phổ biến bao gồm váy mini, áo nịt ngực, tất lưới, giày cao gót, áo vest cộc tay và áo sơ mi xuyên thấu.
- Đen & Trắng: nhấn mạnh sự hiện đại và sang trọng, tượng trưng cho sự sang trọng và lôi cuốn, chủ yếu được áp dụng cho trang phục trang trọng.
- Tương lai: thường mặc với các thể loại nhạc điện tử và hip hop; có các mặt hàng màu nổi bật, các chi tiết kim loại và bản in; thúc đẩy một triển vọng tương lai.
K-pop có ảnh hưởng tác động đáng kể đến thời trang ở châu Á, nơi khởi đầu xu thế của những thần tượng và được người theo dõi trẻ theo đuổi. [ 41 ] Một số thần tượng đã trở thành hình tượng thời trang, ví dụ điển hình như G-Dragon, [ 42 ] và CL, người từng nhiều lần thao tác với nhà phong cách thiết kế thời trang Jeremy Scott, được gọi là ” nàng thơ ” của anh. [ 43 ] [ 44 ]Theo giáo sư Ingyu Oh, ” K-pop nhấn mạnh vấn đề vẻ bên ngoài gầy, cao và dịu dàng êm ả với biểu cảm khuôn mặt tuổi vị thành niên hoặc nhiều lúc rất đáng yêu và dễ thương, bất kể họ là ca sĩ nam hay nữ. ” [ 45 ]
Thập niên 1980 : Kỷ nguyên nhạc ballad.
Thập niên 1980 chứng kiến sự nổi lên của các ca sĩ ballad sau khi album You’re Too Far Away to Get Close to (가까이 하기엔 너무 먼 당신, Gakkai Hagien Neomu Meon Dangsin) năm 1985 của Lee Gwang-jo, đã bán được hơn 300,000 bản. Các ca sĩ ballad nổi tiếng khác bao gồm Lee Moon-se (이문세) và Byun Jin-sub (변진섭), có biệt danh là “Hoàng tử của những bản ballad”. Một trong những nhà soạn nhạc ballad được tìm kiếm nhiều nhất trong thời đại là Lee Young-hoon (이영훈), những bài hát của họ đã được biên soạn thành một vở nhạc kịch hiện đại vào năm 2011 với tên Gwanghwamun Yeonga (광화문 연가, Gwanghwamun’s Song).[46]
Asia Music Forum được ra mắt vào năm 1980, với đại diện của năm quốc gia châu Á khác nhau tranh tài trong sự kiện này. Ca sĩ Hàn Quốc Cho Yong-pil đã giành được vị trí đầu tiên và tiếp tục có một sự nghiệp thành công, biểu diễn ở Hồng Kông và Nhật Bản. Album đầu tiên Chang bakkui yeoja (창 밖의 여자, Woman outside the window) của ông đã thành công và giúp ông trở thành ca sĩ Hàn Quốc đầu tiên biểu diễn trên sân khấu tại Carnegie Hall ở New York. Các sản phẩm âm nhạc của Cho Yong-pil bao gồm rock, dance, trot và folk-pop.[46] Mặc dù có trải nghiệm sớm với nhạc rock với tư cách là một tay guitar điện tử trong một ban nhạc rock, sự nổi tiếng ban đầu của Cho Yong-pil đến từ những bài hát nhạc trot của ông được yêu thích ở cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Ví dụ, vào năm 1976, bài hát nhạc trot của ông, “Please Return to Pusan Port” là một bản hit lớn. Bất chấp thất bại tạm thời do dính líu đến một vụ cần sa vào năm 1977, ông đã cố gắng trở lại với bài hát “The Woman Outside the Window” và đạt doanh thu kỷ lục 1 triệu bản vào năm 1980. Vào năm 1988, ông đã biểu diễn “Seoul Seoul Seoul” bằng ba thứ tiếng (tiếng Hàn, tiếng Anh và tiếng Nhật) để chào mừng Thế vận hội Mùa hè 1988.[47]
Thập niên 1990 : Sự tăng trưởng của nhạc K-pop tân tiến.
Sự nổi tiếng của Seo Taiji & Boys trong giới thanh thiếu niên đã chuyển trọng tâm của ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc sang nhạc pop lấy thanh thiếu niên làm trung tâm. Các ban nhạc thần tượng gồm các chàng trai hoặc cô gái trẻ được thành lập để phục vụ cho lượng khán giả đang ngày càng tăng ở lứa tuổi thanh thiếu niên.[50] H.O.T. là một trong những nhóm nhạc nam thần tượng đầu tiên, ra mắt vào năm 1996 sau quá trình đào tạo nghiêm ngặt không chỉ bao gồm kỹ năng ca hát và vũ đạo mà còn cả nghi thức, thái độ, ngôn ngữ và khả năng đối phó với giới truyền thông.[47] Bài hát “Candy” do H.O.T. thể hiện đã trình bày một dạng nhạc pop nhẹ nhàng và nhẹ nhàng hơn với những giai điệu lạc quan và vui tươi kèm theo những bước nhảy đầy năng lượng – một công thức được nhiều nhóm nhạc thần tượng tiếp theo áp dụng. Nhóm đã thành công rực rỡ và các fan đã sao chép kiểu tóc và thời trang của nhóm. Các mặt hàng liên kết với nhóm từ kẹo đến nước hoa cũng được bán. Tiếp nối thành công của họ là các nhóm nhạc thần tượng nam và nữ trẻ như Sechs Kies, S.E.S., Fin.K.L, NRG, Baby Vox, Diva, Shinhwa và g.o.d, những nhóm cũng trở nên phổ biến trong thế hệ trẻ.[47][51]
Vào cuối thập niên 1990, những công ty quản lý tài năng khởi đầu tiếp thị những ngôi sao 5 cánh K-pop bằng cách tiến hành quy mô kinh doanh thương mại thần tượng được sử dụng trong J-pop, [ 52 ] nơi những kĩ năng được lựa chọn và giảng dạy để lôi cuốn người theo dõi toàn thế giới trải qua những bài học kinh nghiệm chính thức hoặc trải qua những chương trình cư trú. [ 53 ] [ 54 ] [ 55 ] Họ được giảng dạy trải qua một quy trình sâu rộng và nâng cao gồm có rèn luyện sức khỏe thể chất và ngôn từ ( một chương trình đôi lúc được gọi là lạm dụng ) và họ cũng được lựa chọn về chiều cao, trung bình cao hơn nhiều so với những đồng nghiệp Nhật Bản của họ. Về ngoại hình, ” K-pop nhấn mạnh vấn đề vẻ bên ngoài gầy, cao và êm ả dịu dàng với biểu cảm khuôn mặt tươi tắn hoặc nhiều lúc rất đáng yêu và dễ thương, bất kể họ là ca sĩ nam hay nữ “, theo giáo sư xã hội học Ingyu Oh. [ 54 ] Theo thời hạn, những nghệ sĩ người Mỹ gốc Hàn đã trở nên thành công xuất sắc nhờ năng lực ngôn từ trôi chảy của họ. [ 56 ] Những nỗ lực này làm tăng tính thị trường của K-pop đồng thời tăng cường quyền lực tối cao mềm của Nước Hàn, vốn đã trở thành một phần quan trọng trong chủ trương chính thức. [ 57 ]Thập niên 1990 đã tận mắt chứng kiến một trào lưu phản động chống lại văn hóa truyền thống đại chúng chính thống với sự ngày càng tăng của những câu lạc bộ âm nhạc ngầm phạm pháp và ban nhạc punk rock ví dụ điển hình như Crying Nut. [ 50 ] Cuộc khủng hoảng cục bộ kinh tế tài chính châu Á năm 1997 đã thôi thúc những nghệ sĩ Nước Hàn tìm kiếm thị trường mới : H.O.T. phát hành một album tiếng Quan Thoại, [ 50 ] và Diva phát hành một album tiếng Anh ở Đài Loan. [ 53 ]
Thế kỷ 21: Sự trỗi dậy của làn sóng Hallyu
.
Sự phổ biến ngày càng tăng của K-pop tạo nên một phần của Hallyu, hoặc Làn sóng Hàn Quốc: sự phổ biến của văn hóa Hàn Quốc ở các quốc gia khác.[58] K-pop ngày càng xuất hiện nhiều trên các bảng xếp hạng phương Tây như Billboard.[59][60] Sự phát triển của mạng xã hội trực tuyến đã là một công cụ quan trọng cho ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc trong việc tiếp cận nhiều khán giả hơn.[61] Như một phần của Làn sóng Hàn Quốc, K-pop đã được chính phủ Hàn Quốc coi là một công cụ để quảng bá quyền lực mềm của Hàn Quốc ra nước ngoài, đặc biệt là đối với giới trẻ nước ngoài.[62][63] Vào tháng 8 năm 2014, tạp chí tin tức nổi bật The Economist của Anh gọi văn hóa đại chúng Hàn Quốc là “Người dẫn đầu xu hướng hàng đầu châu Á”.[64]
Vào đầu thế kỷ 21, thị trường K-pop đã xuống dốc và các nhóm nhạc thần tượng K-pop ban đầu thành công trong thập niên 1990 đang suy giảm. H.O.T. tan rã vào năm 2001, trong khi các nhóm nhạc khác như Sechs Kies, S.E.S., Fin.K.L, Shinhwa và g.o.d trở nên ngừng hoạt động vào năm 2005. Các nghệ sĩ solo như BoA và Rain phát triển thành công. Tuy nhiên, thành công của nhóm nhạc nam TVXQ sau khi ra mắt vào năm 2003 đánh dấu sự trỗi dậy của các nhóm nhạc thần tượng trong làng giải trí Hàn Quốc và sự phát triển của K-pop như một phần của Hallyu. Sự ra đời của K-pop thế hệ thứ hai được nối tiếp với sự ra mắt thành công của SS501 (2005), Super Junior (2005), Big Bang (2006), Wonder Girls (2007), Girls’ Generation (2007), Kara (2007), Shinee (2008), 2NE1 (2009), 4Minute (2009), T-ara (2009), f(x) (2009) và After School (2009).
Vào đầu thế kỷ 21, các thần tượng K-pop bắt đầu nhận được thành công ở những nơi khác ở châu Á: vào năm 2002, đĩa đơn “Coincidence” của Baby Vox đã trở nên phổ biến ở nhiều nước châu Á sau khi nó được phát hành và quảng bá trong World Cup ở Hàn Quốc. BoA trở thành ca sĩ K-pop đầu tiên đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng âm nhạc Oricon của Nhật Bản,[65] và ngay sau đó, Rain đã có một buổi biểu diễn cháy vé trước 40,000 người hâm mộ tại Bắc Kinh.[66] Vào năm 2003, Baby Vox đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc Trung Quốc với đĩa đơn tiếng Trung “I’m Still Loving You” từ album thứ ba Devotion, là nhóm nhạc thần tượng đầu tiên làm được điều này, tạo ra một lượng fan khổng lồ ở Trung Quốc. Họ cũng đã lọt vào các bảng xếp hạng âm nhạc khác nhau ở Thái Lan. TVXQ đánh dấu sự trỗi dậy của các nhóm nhạc nam K-pop tại Nhật Bản. Vào năm 2008, đĩa đơn “Purple Line” của họ đã đưa TVXQ trở thành nhóm nhạc nam nước ngoài đầu tiên và nghệ sĩ Hàn Quốc thứ hai sau BoA đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc Oricon.
Kể từ giữa thập niên 2000, một phần đông thị trường âm nhạc Đông Á đã bị thống trị bởi K-pop. [ 67 ] Vào năm 2008, xuất khẩu văn hóa truyền thống của Nước Hàn ( gồm có cả phim truyền hình và game show máy tính ) đã tăng lên 2 tỷ USD, duy trì vận tốc tăng trưởng hàng năm trên 10 %. [ 68 ] Vào năm đó, Nhật Bản chiếm gần 68 % tổng doanh thu xuất khẩu K-pop, trước Trung Quốc ( 11,2 % ) và Hoa Kỳ ( 2,1 % ). [ 69 ] Việc bán vé cho những buổi hòa nhạc được chứng tỏ là một việc làm kinh doanh thương mại béo bở ; Tohoshinki Live Tour của TVXQ tại Nhật Bản đã bán được hơn 850,000 vé với ngân sách trung bình là 109 USD mỗi vé, tạo ra tổng doanh thu 92,6 triệu USD. [ 70 ]
Ở những nơi khác trên thế giới, thể loại này đã nhanh chóng phát triển thành công,[71] đặc biệt là sau khi video âm nhạc “Gangnam Style” của Psy trở thành video YouTube đầu tiên đạt 1 tỷ lượt xem, đạt được mức độ phủ sóng rộng rãi trên các phương tiện truyền thông chính thống.[72][73] Tính đến tháng 12 năm 2020, video đã có 3,9 tỷ lượt xem.[74] Một số nỗ lực thất bại đã được thực hiện bởi các công ty giải trí để thâm nhập vào thị trường nói tiếng Anh, bao gồm BoA, Wonder Girls, Girls’ Generation và CL.[75][76][77] BTS đã giành được giải thưởng Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu tại lễ trao giải Billboard Music Awards năm 2017, khiến họ trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên giành chiến thắng giải BBMA.[78] Sân khấu biểu diễn bài hát “DNA” của họ tại American Music Awards, buổi biểu diễn AMA đầu tiên của một nhóm nhạc K-pop, cũng dẫn đến việc bài hát đạt vị trí số 67 trên Billboard Hot 100.[79] Vào năm sau, BTS trở thành nhóm nhạc K-pop đầu tiên đạt vị trí số 1 trên Billboard 200 với Love Yourself: Tear.[80] Map of the Soul: Persona của BTS sau đó trở thành album bán chạy nhất tại Hàn Quốc, với hơn 3,2 triệu bản tiêu thụ trong vòng chưa đầy 1 tháng.[81] Vào ngày 15 tháng 5 năm 2019, BTS cũng đã khởi động “Summer Concert Series” của Good Morning America với tư cách là người mở màn tại Central Park ở Manhattan.[82] Vào đêm ngày 31 tháng 12 năm 2019, BTS đã biểu diễn tại Quảng trường Thời đại của thành phố New York cho đêm giao thừa năm 2020 trong chương trình Dick Clark’s New Year’s Rockin’ Eve, trước 1 triệu khán giả và hơn 1 tỷ khán giả xem truyền hình.[83]
Các nghệ sĩ K-pop thường được gọi là thần tượng hoặc nhóm nhạc thần tượng.[84] Các nhóm nhạc thường có một nhóm trưởng, người này thường là thành viên lớn tuổi nhất hoặc có kinh nghiệm lâu nhất và là người phát biểu thay cho nhóm. Thành viên trẻ nhất trong nhóm được gọi là maknae (막내).[85] Việc sử dụng phổ biến thuật ngữ này ở Nhật Bản bị ảnh hưởng bởi nhóm nhạc nam SS501 khi họ mở rộng hoạt động của mình trong nước vào năm 2007. Bản dịch tiếng Nhật của nó, man’ne (マンネ) thường được dùng để đặt tên cho thành viên nhỏ tuổi nhất của nhóm Kim Hyung-jun để phân biệt anh với trưởng nhóm bằng tên và cách viết tương tự, Kim Hyun-joong.[86]
Sức hút và hội đồng người hâm mộ.
Không phải tất cả người hâm mộ K-pop đều là phụ nữ trẻ;[87] vào năm 2018, tạp chí Metro đã phỏng vấn những người hâm mộ K-pop nam ở các quốc tịch khác nhau, họ đã nói về việc theo dõi các nhóm nhạc pop nam và trở thành một phần trong cộng đồng người hâm mộ của họ đã giúp họ hiểu bản thân và khái niệm nam tính hơn như thế nào.[88]
Nhiều người hâm mộ đi du lịch quốc tế để xem thần tượng của họ trong chuyến lưu diễn, và khách du lịch thường đến Nước Hàn từ Nhật Bản và Trung Quốc để xem những buổi hòa nhạc K-pop. [ 89 ] Một nhóm du lịch K-pop đến từ Nhật Bản với hơn 7,000 người hâm mộ đã bay đến Seoul để gặp gỡ nhóm nhạc nam JYJ vào năm 2012, [ 90 ] và trong buổi trình diễn của JYJ tại Barcelona vào năm 2011, người hâm mộ từ nhiều nơi trên quốc tế đã cắm trại qua đêm để được vào cửa. [ 91 ] Một cuộc khảo sát năm 2011 do Sở Văn hóa và tin tức Nước Hàn triển khai đã báo cáo giải trình rằng có hơn 3 triệu thành viên tích cực của những câu lạc bộ người hâm mộ Hallyu. [ 92 ]
Một bài báo của The Wall Street Journal chỉ ra rằng sức mạnh tồn tại trong tương lai của K-pop sẽ được định hình bởi người hâm mộ, những người có các hoạt động trực tuyến đã phát triển thành “doanh nghiệp vi mô”.[93] Các nhóm nhạc K-pop thường có các câu lạc bộ người hâm mộ dành riêng với tên tập thể và đôi khi là một màu sắc riêng,[94][95] mà họ sẽ phát hành hàng hóa. Ví dụ, người hâm mộ của TVXQ được gọi là Cassiopeia, và màu sắc chính thức của họ là màu đỏ ngọc trai. Một số nhóm nổi tiếng hơn đã cá nhân hóa gậy ánh sáng để sử dụng tại các buổi hòa nhạc; ví dụ: người hâm mộ của Big Bang cầm gậy ánh sáng hình vương miện màu vàng.[96]
Các câu lạc bộ người hâm mộ đôi khi tham gia các sự kiện từ thiện để ủng hộ thần tượng của họ, mua những vòng hoa gạo để thể hiện sự ủng hộ. Những bao gạo được quyên góp cho những người khó khăn.[97] Theo Time, cho một trong những buổi biểu diễn của Big Bang, 12,7 tấn gạo đã được quyên góp từ 50 câu lạc bộ người hâm mộ trên khắp thế giới. Có những doanh nghiệp ở Hàn Quốc chuyên vận chuyển gạo từ nông dân đến địa điểm.[98] Một cách khác mà các câu lạc bộ người hâm mộ thể hiện sự tận tâm của họ là gửi bữa trưa cho thần tượng trong lịch trình của họ và có những công ty cung cấp dịch vụ ăn uống ở Hàn Quốc dành riêng cho mục đích này.[99]
Một tính năng độc lạ của fandom K-pop là ” fan chant “. Khi một nhóm nhạc thần tượng phát hành một bài hát mới, những câu hô, thường gồm có tên của những thành viên trong nhóm, được thực thi bởi người theo dõi của buổi hòa nhạc trực tiếp trong những phần nhạc của bài hát. [ 100 ]
Sự ám ảnh.
Một số thần tượng và nhóm nhạc thần tượng đã phải đối mặt với vấn đề từ những người hâm mộ quá khích, những người thích hành vi rình rập hoặc xâm phạm. Những người hâm mộ này được gọi là sasaeng, từ tiếng Hàn có nghĩa là “cuộc sống riêng tư”, ám chỉ xu hướng xâm phạm quyền riêng tư của thần tượng và thành viên của các nhóm nhạc thần tượng. Đã có những lời kể về những hành vi quá khích của người hâm mộ khi cố gắng thu hút sự chú ý của thần tượng.[101] Các quan chức Hàn Quốc công nhận đây là một mối quan tâm duy nhất nhưng nghiêm túc.[102]
Một số thần tượng đã phản ứng khó chịu so với sasaeng fan, vì họ đã nhận được hành vi quá khích ; gồm có những thành viên của JYJ, thành viên Kim Hee-chul của Super Junior và Jang Keun-suk. [ 101 ] [ 103 ] [ 104 ]Để đối phó với yếu tố này, một luật mới được trải qua vào tháng 2 năm năm nay ở Nước Hàn cho thấy hình phạt cho hành vi rình rập tăng lên khoảng chừng 17,000 USD và cũng hoàn toàn có thể là 2 năm tù. [ 105 ]
Truyền thông xã hội.
Các website truyền thông online xã hội như YouTube, Twitter và Facebook được cho phép những nghệ sĩ K-pop tiếp cận người theo dõi toàn thế giới và tương tác thuận tiện với người hâm mộ của họ. [ 106 ] Khi lệch giá thị trường âm nhạc trực tuyến toàn thế giới tăng 19 % từ năm 2009 đến năm năm trước với phương tiện đi lại tiếp thị quảng cáo xã hội, người tiêu dùng âm nhạc trên khắp quốc tế có nhiều năng lực tiếp xúc với K-pop hơn. [ 107 ] Các nhóm nhạc thần tượng K-pop được hưởng lợi từ những phương tiện đi lại tiếp thị quảng cáo xã hội dựa trên video như YouTube vì những yếu tố hình ảnh như vũ đạo và thời trang là những yếu tố thiết yếu trong hoạt động giải trí của họ. Số lượng tìm kiếm ” K-pop ” trên YouTube tăng 33 lần từ năm 2004 đến năm năm trước. Thông qua quảng cáo trên mạng xã hội, những công ty vui chơi Nước Hàn đã thu hẹp khoảng cách văn hóa truyền thống để K-pop hoàn toàn có thể xâm nhập thị trường toàn thế giới và được người tiêu dùng quốc tế công nhận. Xuất khẩu của K-pop tăng đáng kể từ 13,9 triệu USD lên 204 triệu USD từ năm 2007 đến 2011. [ 107 ] Mạng xã hội cũng đổi khác cách tiêu dùng nhạc K-pop. Trước kỷ nguyên kỹ thuật số, mọi người sẽ mua và tiêu thụ những mẫu sản phẩm âm nhạc trên cơ sở cá thể. Người tiêu dùng lúc bấy giờ tích cực tham gia san sẻ những loại sản phẩm âm nhạc và quảng cáo những nghệ sĩ họ thương mến, đây là một lợi thế cho K-pop .
Kể từ khi ngành công nghiệp K-pop bắt đầu lan rộng ra ngoài Hàn Quốc, các nghệ sĩ K-pop đã lập nhiều kỷ lục đáng chú ý trên YouTube. Trong tổng số 2,28 tỷ lượt xem YouTube K-pop trên toàn thế giới vào năm 2011, 240 triệu đến từ Hoa Kỳ, cao hơn gấp đôi so với con số của năm 2010 (94 triệu).[cần dẫn nguồn] Vào tháng 12 năm 2011, K-pop trở thành thể loại âm nhạc dành riêng cho từng quốc gia đầu tiên có trang chủ trên YouTube.[106] Vào tháng 12 năm 2012, video âm nhạc của Psy cho “Gangnam Style” đã trở thành video YouTube đầu tiên đạt được 1 tỷ lượt xem.[109] Vào năm 2016, video âm nhạc cho “TT” của Twice đã trở thành video đầu tiên của một nữ ca sĩ Hàn Quốc đạt hơn 400 triệu lượt xem trên YouTube.[110] Vào ngày 21 tháng 1 năm 2019, video âm nhạc của nhóm nhạc nữ Blackpink cho “Ddu-Du-Ddu-Du” đã trở thành video âm nhạc của nhóm nhạc K-pop có lượt xem cao nhất trên YouTube.[111] Vào ngày 12 tháng 4 năm 2019, video âm nhạc của BTS cho “Boy with Luv” đã lập kỷ lục cho video âm nhạc trực tuyến được xem nhiều nhất trong 24 giờ đầu tiên, thu về hơn 74 triệu lượt xem.[112]
Twitter cũng là một nền tảng truyền thông xã hội quan trọng để các ngôi sao K-pop có được kết nối và quảng bá.[113] Bài hát lan truyền “Gangnam Style” đã trở nên phổ biến nhờ những đề cập của những người dùng Twitter nổi bật.[113] Bang Si-hyuk, nhà sản xuất của BTS, cho rằng sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng người hâm mộ là nhờ vào các phương tiện truyền thông xã hội như Twitter.[114] Vào ngày 13 tháng 11 năm 2017, BTS đã trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên đạt 10 triệu người theo dõi trên Twitter.[115][116] Vào năm 2017, BTS là nghệ sĩ được tweet về nhiều nhất cả ở Hoa Kỳ và trên toàn cầu. Các nhóm nhạc K-pop khác, chẳng hạn như Seventeen và Monsta X, cũng xuất hiện trong top 10 toàn cầu. Exo, một nhóm nhạc nam Hàn Quốc, là người nổi tiếng gia nhập Twitter vào năm 2017 được theo dõi nhiều nhất.[117] Tại lễ trao giải Billboard Music Awards năm 2017, 2018 và 2019, BTS đã giành được giải thưởng Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu dựa trên sự bình chọn của người hâm mộ trên Twitter.[118][119][120] Theo Sin Chang Seob, CEO của Twitter Hàn Quốc, việc sử dụng Twitter của các nghệ sĩ K-pop đã làm tăng mức độ phổ biến của Twitter đối với người dân Hàn Quốc.[121]
Nhiều công ty vui chơi Nước Hàn sử dụng những nền tảng tiếp thị quảng cáo xã hội, đặc biệt quan trọng là Facebook, để tiếp thị và phát động những buổi thử giọng toàn thế giới của họ. [ 106 ] Các nhóm nhạc K-pop sử dụng những trang Facebook để tiếp thị âm nhạc và những nội dung khác của họ tới số lượng lớn người hâm mộ. [ 122 ] Người hâm mộ K-pop sử dụng Facebook để bày tỏ sự tận tâm của họ, tiếp xúc với những thành viên khác của hội đồng K-pop và tiêu thụ nội dung K-pop. [ 123 ]
Nhạc Hàn lời Việt.
Những năm 1990 – 2000.
Làn sóng Nước Hàn lan tỏa ra khắp châu Á từ đầu thế kỷ 21, mở màn với những bộ phim truyền hình tâm ý tình cảm dành cho những bà nội trợ trung niên, đã ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ đến nền vui chơi Nước Ta. [ 124 ] Nhiều ca sĩ V-pop lúc bấy giờ đã hát lại hoặc phối lại nhạc Hàn bằng tiếng Việt, trong đó có cả những ca khúc nhạc phim khét tiếng : [ 125 ]
Từ 2008 – nay.
Từ quãng năm 2008 trở đi với những bản hit K-pop như “Nobody” (Wonder Girls), “Haru Haru” (Big Bang) hay “Mirotic” (TVXQ),[127] và đặc biệt là từ khi bộ phim truyền hình thần tượng “Boys Over Flowers” lên sóng vào năm 2009 đã tạo nên cơn sốt hâm mộ cuồng nhiệt trên toàn châu Á, giúp cho làn sóng Hàn Quốc hồi sinh theo hướng trẻ trung hóa, năng động hóa. Cũng từ năm 2009 là sự bùng nổ của dòng nhạc K-pop và sự ra đời của hàng loạt nhóm nhạc thần tượng Hàn Quốc mới.[128] Nhiều ca khúc đình đám đã được hát lại hay phối lại bằng tiếng Việt như:
Danh sách nghệ sĩ K-pop.
Liên kết ngoài.
Source: http://139.180.218.5
Category: Kiến thức âm nhạc