Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Núi lửa – Wikipedia tiếng Việt

vết đứt gãy trên lớp vỏ của một hành tinh được cho phép dung nham, tro núi lửa, và khí thoát ra từ magma ở dưới lòng đất lên mặt phẳng

Núi lửa là một vết đứt gãy trên lớp vỏ của một hành tinh, như là Trái Đất cho phép dung nham, tro núi lửa, và khí thoát ra từ một lò magma ở dưới bề mặt.

Một vụ phun trào của Núi Pinatubo ngày 12 tháng 6 năm 1991, 3 ngày trước khi vụ phun trào đạt đỉnh

Núi lửa trên Trái Đất xảy ra vì lớp vỏ của nó được chia thành 7 mảng kiến tạo lớn, cứng rắn nổi trên lớp phủ nóng hơn và mềm hơn.[1] Do đó, trên Trái Đất, núi lửa thường xuất hiện ở ranh giới giữa các mảng kiến tạo, và hầu hết là ở dưới nước. Ví dụ, một sống núi giữa đại dương, như là sống núi giữa Đại Tây Dương, có núi lửa do các mảng kiến tạo phân kỳ, trong khi vành đai lửa Thái Bình Dương có núi lửa do các mảng kiến tạo hội tụ. Núi lửa cũng có thể hình thành nơi các mảng kiến tạo kéo dài và mỏng đi, ví dụ như ở đới tách giãn Đông Phi hay cánh đồng núi lửa Wells Gray-Clearwater và đới tách giãn Rio Grande tại Bắc Mỹ. Loại hoạt động núi lửa này thuộc “thuyết mảng”. This type of volcanism falls under the umbrella of “plate hypothesis” volcanism.[2] Hoạt động núi lửa không gần ranh giới mảng kiến tạo cũng có xuất hiện, và được giải thích là các chùm manti. Những “điểm nóng”, ví dụ như Hawaii, được cho là hình thành từ nếp trồi với magma dâng lên từ ranh giới lớp lõi – lớp phủ, sâu 3,000 km trong lòng Trái Đất. Núi lửa thường không được tạo ra khi hai mang kiến tạo trược lên nhau.

Núi lửa phun trào hoàn toàn có thể tạo nên nhiều mối nguy hại, không riêng gì trong khu vực lân cận của vụ phun trào. Một mối rình rập đe dọa là tro núi lửa, tác động ảnh hưởng xấu đến máy bay, đặc biệt quan trọng là những loại có động cơ phản lực, hoàn toàn có thể làm nóng chảy những hạt tro, sau đó tro nóng chảy sẽ dính vào cánh tua bin và biến hóa hình dạng, làm hỏng tua bin. Những vụ phun trào lớn hoàn toàn có thể biến hóa nhiệt độ bởi tro và những giọt axit sulfuric che mờ mặt trời và làm tầng khí quyển thấp ( tầng đối lưu ) ; tuy nhiên, chúng cũng hấp thụ nhiệt lượng tỏa ra từ Trái Đất, làm ấm lớp khí quyển cao hơn ( tầng bình lưu ). Trong quá khứ, mùa đông núi lửa đã gây ra những nạn đói trên diện rộng .

Trong tiếng Anh, từ volcano dùng để chỉ núi lửa có nguồn gốc từ Vulcano, một hòn đảo núi lửa thuộc quần đảo Eolie của Ý. Cái tên đó lại bắt nguồn từ Vulcan, vị thần của lửa trong thần thoại La Mã.[3] Ngành nghiên cứu tính chất và hoạt động của núi lửa được gọi là núi lửa học.

Kiến tạo mảng.

Bản đồ biểu lộ những ranh giới mảng phân kỳ ( OSR – sống núi tách giãn đại dương ) và những núi lửa trên mặt đất gần đây .

Ranh giới mảng phân kỳ.

Tại những sống núi giữa đại dương, hai mảng xây đắp tách xa nhau, đồng thời đá nóng chảy nguội dần và hóa cứng tạo thành vỏ đại dương mới. Lớp vỏ rất mỏng dính ở những sống núi này do lực kéo của những mảng xây đắp khiến cho áp lực đè nén được giải phóng, dẫn đến sự co và giãn đoạn nhiệt ( không có sự truyền nhiệt hay vật chất ) và làm lớp manti tan chảy một phần, gây ra núi lửa và tạo thành vỏ đại dương mới. Hầu hết ranh giới tách giãn nằm ở đáy đại dương ; do đó, hầu hết hoạt động giải trí núi lửa trên Trái Đất xảy ra dưới mặt nước, hình thành nên đáy biển mới. Miệng phun thủy nhiệt là vật chứng cho dạng hoạt động giải trí húi lửa này. Nếu sống núi giữa đại dương nằm trên mặt nước biển, những hòn đảo núi lửa, ví dụ như Iceland .

Ranh giới mảng quy tụ.

Các đới hút chìm là những nơi mà hai mảng va chạm, thường là một mảng đại dương và một mảng lục địa. Trong trường hợp này, mảng đại dương bị hút xuống dưới mảng lục địa, tạo thành một rãnh đại dương ngay ngoài bờ biển. Trong một quy trình gọi là tan chảy dòng ( tiếng Anh : flux melting ), nước thoát ra từ mảng nằm dưới làm giảm nhiệt độ nóng chảy của lớp manti nằm trên, tạo thành magma. Magma này thường cực kỳ nhớt do thành phần chứa nhiều silica, vì thế nó thường không nổi lên mặt phẳng mà nguội đi và hóa cứng ở dưới sâu. Nhưng nếu nó lên đến mặt phẳng, một núi lửa sẽ được hình thành. Những ví dụ nổi bật gồm Núi Etna và núi lửa trong Vành đai lửa Thái Bình Dương .
Điểm nóng là những khu vực núi lửa được cho là hình thành từ những chùm manti, tức là những cột vật chất nóng chảy dâng lên từ ranh giới lớp lõi – lớp phủ. Do những mảng kiến thiết vận động và di chuyển qua chúng, những núi lửa ngủ yên và chỉ hoạt động giải trí lai khi mảng xây đắp vận động và di chuyển qua chùm manti đã có. Quần đảo Hawaii được cho là hình thành theo cách như vậy ; cũng như hõm chảo Yellowstone, một phần của mảng Bắc Mỹ nằm trên một điểm trung tâm. Tuy nhiên, giả thuyết này đã bị hoài nghi. [ 2 ]
Skjaldbreiður, một núi lửa hình khiên với tên gọi mang nghĩa “cái khiên lớn”Hình ảnh phổ cập nhất của núi lửa là một ngọn núi hình nón, phun dung nham và khí độc từ miệng ở trên đỉnh núi ; tuy nhiên, đây chỉ là một trong nhiều dạng núi lửa. Đặc điểm của núi lửa phức tạp hơn rất nhiều và cấu trúc và hoạt động giải trí của chúng phụ thuộc vào vào nhiều yếu tố. Một số núi lửa có đỉnh không nhẵn hình thành từ vòm dung nham thay vì miệng núi lửa trong khi những núi lửa khác có đặc thù cảnh sắc như cao nguyên lớn. Các miệng phun vật chất núi lửa ( gồm có dung nham và tro ) và khí hoàn toàn có thể Open trên bất kể địa mạo nào và hoàn toàn có thể hình thành nên những nón núi lửa nhỏ hơn như Puʻu ʻŌʻō ở rìa của hòn hòn đảo Kīlauea thuộc Hawaii. Các dạng núi lửa khác gồm có núi lửa băng, đơn cử là trên một số ít mặt trăng của sao Mộc, sao Thổ và sao Hải Vương ; và núi lửa bùn, dạng núi lửa có sự hình thành không Open hoạt động giải trí magma. Núi lửa bùn hoạt động giải trí thường có nhiệt độ thấp hơn nhiều so với núi lửa magma, trừ trường hợp núi lửa bùn đó là một lỗ phun của một núi lửa magma .

Vết nứt núi lửa.

Vết nứt núi lửa là những khe nứt bằng, thẳng mà từ đó dung nham phun trào.

Núi lửa hình khiên.

Núi lửa hình khiên, với hình dạng rộng giống cái khiên, được hình thành từ sự phun trào dung nham có độ nhớt thấp và di chuyển xa khỏi lỗ phun. Chúng thường không nổ lớn khi phun trào. Do dung nham ít nhớt thường chứa ít silica, núi lửa hình khiên xuất hiện nhiều ở khu vực biển hơn là đất liền. Dãy núi lửa Hawaii là một chuỗi cái núi lửa hình khiên, ngoài ra chúng cũng phổ biến tại Iceland.

Vòm dung nham.

Vòm dung nham hình thành từ dung nham có độ nhớt cao chảy chậm. Đôi khi chúng xuất hiện trong miệng núi lửa của một vụ phun trào trước đó, như trong trường hợp của Núi St. Helens, nhưng cũng có thể hình thành riêng biệt, như Đỉnh Lassen. Giống với núi lửa dạng tầng, vòm dung nham có thể tạo ra những vụ phun trào mạnh, nhưng dung nham của chúng thường không đi xa khỏi lỗ phun.

Vòm ẩn được hình thành từ dung nham nhớt bị đẩy lên khiến bề mặt đất phình lên. Vụ phun trào núi St. Helens năm 1980 là một ví dụ; dung nham dưới bề mặt ngọn núi tạo một chỗ phồng lên trên bề mặt, chỗ phồng này sau đó trượt xuống sườn bắc của ngọn núi.

Nón núi lửa ( nón than ).

Núi lửa Izalco, ngọn núi lửa trẻ nhất tại El Salvador. Izalco phun trào gần như liên tục từ năm 1770 (khi nó hình thành) đến năm 1958, khiến nó có biệt danh “Ngọn hải đăng Thái Bình Dương”.

Nón núi lửa hay nón than hình thành từ các mảnh scoria và đá mạt vụn núi lửa (cả hai đều giống than xỉ, từ đó có tên gọi của loại núi lửa này) tích tụ xung quanh lỗ thông. Các vụ phun trào này thường không dài, hình thành những ngọn đồi hình nón cao từ 30 đến 400 mét. Hầu hết nón than chỉ phun trào một lần. Nón than có thể xuất hiện trên sườn của những ngọn núi lửa lớn hơn, hoặc xuất hiện riêng lẻ. Parícutin ở Mexico và miệng núi lửa Sunset ở Arizona là những ví dụ của nón than. Tại New Mexico, Caja del Rio là một cánh đồng núi lửa gồm hơn 60 nón than.

Dựa trên hình ảnh vệ tinh, người ta cho rằng nón than hoàn toàn có thể Open trên những vật thể khác trong hệ mặt trời, như trên mặt phẳng của sao Hỏa và mặt trăng. [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ]

Núi lửa dạng tầng.

Mặt cắt một núi lửa dạng tầng (không theo tỉ lệ):

  1. Lò magma
  2. Móng
  3. Ống dẫn
  4. Chân núi
  5. Mạch trần (tiếng Anh: sill)
  6. Mạch tường (tiếng Anh: dyke)
  7. Lớp tro
  8. Sườn núi
  9. Lớp dung nham
  10. Họng núi lửa
  11. Nón “ký sinh”
  12. Dòng dung nham
  13. Lỗ thoát
  14. Miệng núi lửa
  15. Đám mây tro

Núi lửa dạng tầng hay núi lửa hỗn hợp là những ngọn núi lửa cao hình nón gồm nhiều lớp dung nham, tro và những vật chất khác. Núi lửa dạng tầng còn được gọi là núi lửa hỗn hợp do chúng được tạo thành từ nhiều cấu trúc khác nhau trong các vụ phun trào. Núi lửa dạng tầng có than xỉ, và tro chồng lên nhau, dung nham chảy trên lớp tro rồi nguội đi và cứng lại, sau đó quá trình này lặp lại. Các vị dụ điển hình là Núi Phú Sĩ ở Nhật Bản, Núi lửa Mayon ở Philippines, và Núi Vesuvius và Stromboli ở Ý.

Trong lịch sử dân tộc được ghi chép, tro từ những vụ phun trào núi lửa của núi lửa dạng tầng là mối nguy khốn lớn nhất từ núi lửa đến những nền văn minh. Núi lửa dạng tầng có áp lực đè nén lớn hơn núi lửa khiên do những dòng chảy dung nham trong lòng núi lửa, đồng thời vết nứt núi lửa và nón núi lửa của chúng cũng phun trào mạnh hơn. Núi lửa dạng tầng cũng dốc hơn núi lửa hình khiên, với độ dốc khoảng chừng 30-35 ° so với độ dốc 5 – 10 °, và mạt vụn núi lửa tạo nên những lahar nguy hại. [ 8 ] [ 9 ] Những mạt vụn lớn được gọi là bom núi lửa. Những quả bom lớn hoàn toàn có thể dài đến 1.2 mét và nặng vài tấn. [ 10 ]

Siêu núi lửa.

Một siêu núi lửa thường có hõm chảo lớn và có sức phả hủy trên quy mô lớn, đôi khi là toàn lục địa. Những ngọn núi lửa như thế có khả năng làm giảm nhiệt độ toàn cầu trong nhiều năm sau khi phun trào do lượng lớn lưu huỳnh và tro phóng ra khí quyển. Đây là loại núi lửa nguy hiểm nhất. Các ví dụ bao gồm hõm chảo Yellowstone trong Vườn quốc gia Yellowstone và hõm chảo Valles tại New Mexico (cả hai đều ở miền Tây nước Mỹ); hồ Taupo tại New Zealand; hồ Toba ở Sumatra, Indonesia; và Miệng núi lửa Ngorongoro ở Tanzania. Do chúng trải dài trên một khu vực rộng lớn, siêu núi lửa thường khó được định vị nhiều thế kỉ sau một cuộc phun trào. Tương tự, các tỉnh thạch học lớn (tiếng Anh: large igneous province, LIP) cũng được coi là siêu núi lửa do lượng dung nham bazan lớn được phun trào (tuy rằng không nổ lớn khi phun trào).

Núi lửa dưới nước.

Núi lửa ngầm thường xuất hiện trên mặt đáy biển. Ở vùng nước nông, núi lửa đang hoạt động phun khói và vụn đá lên trên bề mặt nước biển, khiến chúng dễ được nhận ra. Ở những vùng sâu hơn, áp suất của tầng nước bên trên quá lớn nên núi lửa không thể phun vật chất ra ngoài đủ mạnh; tuy nhiên, chúng vẫn có thể được phát hiện bằng hydrophone và sự đổi màu nước do khí núi lửa. Dung nham gối là một sản phẩm thường thấy của núi lửa ngầm và đặc trưng bởi những chuỗi khối hình gối không liên tục hình thành dưới nước. Ngay cả những vụ phun trào lớn dưới nước có thể không có tác động lớn do khả năng làm nguội nhanh và lực nổi lớn (so với không khí) của nước. Các miệng phun thủy nhiệt cũng hay xuất hiện gần những núi lửa ngầm, và một số có cả hệ sinh thái xung quanh.

Năm 2018, một loạt những tín hiệu địa chấn được phát hiện bởi những cơ quan theo dõi động đất khắp quốc tế trong tháng 6 và tháng 7. Chúng tạo ra những âm thanh kỳ lạ và một số ít tín hiệu bắt được vào tháng 11 cùng năm lê dài đến 20 phút. Tháng 5 năm 2019, một chiến dịch hải dương cho thấy những âm thanh kỳ lạ trước đó xuất phát từ sự hình thành của một núi lửa ngầm ngoài khơi Mayotte. [ 11 ]

Núi lửa dưới băng.

Núi lửa dưới băng hình thành dưới các chỏm băng từ những lớp dung nham chảy trên những dung nham gối và palagonit. Khi chỏm băng tan, dung nham ở trên sụp đổ, để lại một ngọn núi bằng. Những ngọn núi lửa này còn được gọi là núi bàn hay tuya. Loại núi lửa này có thể được tìm thấy ở Iceland, ngoài ra các tuya cũng có ở British Columbia, Canada. Nguồn gốc cái tên “tuya” là từ Butte Tuya, một trong vài tuya ở khu vực Sông Tuya và Dãy Tuya miền bắc British Columbia.

Núi lửa bùn.

Núi lửa bùn hay mái vòm bùn hình thành từ bùn hoặc bột nhão, nước và khi thoát ra từ phun trào. Núi lửa bùn, không như núi lửa thông thường, không phun trào dung nham. Chúng có thể rộng đến 10 km và cao đến 700 mét.

Vật chất phun trào.

Xem thêm thông tin : Dung nham Dòng chảy dung nham Pāhoehoe trên Hawaii Dòng chảy pyroclastic trên sườn núi lửa Mayon tại Philippines, ngày 23 tháng 9 năm 1984

Thành phần dung nham.

Một cách phân loại núi lửa là dựa vào thành phần của vật chất được phun trào (dung nham), do nó ảnh hưởng đến hình dáng núi lửa. Dung nham có thể được chia thành bốn nhóm lớn, dựa vào tỉ lệ silica có trong magma.[12]

Nếu magma phun trào chứa lượng lớn silica ( > 63 % ), dung nham được gọi là felsic. Nếu thành phần silica lớn hơn 69 %, chúng được gọi là rhyolit, nếu nằm trong khoảng chừng 63 – 69 % là dacit. Dung nham felsic thường có độ nhớt cao và phun trào thành mái vòm hay những dòng chảy ngắn. Dung nham nhớt thường hình thành núi lửa tầng hay mái vòm dung nham. Đỉnh Lassen tại California là một núi lửa hình thành từ dung nham felsic và thực ra là một mái vòm dung nham lớn. [ 13 ]Do magma chứa nhiều silica có độ nhớt cao, chúng thường nhốt khí lại, khiến magma phun trào rất mạnh, tạo thành núi lửa tầng. Luồng mạt vụn núi lửa ( ignimbrit ) là loại sản phẩm rất nguy hại của núi lửa dạng này, do chúng chứa tro núi lửa bị nóng chảy quá nặng để bay lên không khí, nhưng vẫn đủ nhẹ để chuyển dời rất nhanh và xa khỏi nơi phun trào. Những dòng chảy này có nhiệt độ lên đến 1.200 °C, đốt cháy mọi thứ trên đường đi, trong khi những mạt vụn hoàn toàn có thể dồn lại thành lớp dày đến vài mét. Thung lũng Vạn khói ở Alaska, hình thành từ sự phun trào của Novarupta gần Núi Katmai năm 1912, là một ví dụ của luồng mạt vụn dày. Tro núi lửa đủ nhẹ để bay vào khí quyển Trái Đất hoàn toàn có thể đi hàng kilômét trước khi rơi xuống đất thành tuff .

Nếu magma phun trào chứa 52–63% silica, gọi chung là có thành phần trung gian, dung nham được gọi là andesit (xuất phát từ dãy Andes). Những núi lửa andesit thường chỉ xuất hiện trên những đới hút chìm, ví dụ như Núi Merapi ở Indonesia. Dung nham andesit thường hình thành tại ranh giới hội tụ của những mảng kiến tạo qua một vài quá trình:

  • Kết tinh phân đoạn của magma mafic (xem ở dưới)
  • Nóng chảy từng phần của vật chất trong lớp vỏ
  • Sự trộn lẫn magma rhyolit và magma bazan mafic trong một buồng chứa trung gian

Nếu lượng silica trong magma nằm trong khoảng chừng 45 – 52 %, dung nham được gọi là mafic, do chứa lượng lớn magie ( Mg ) và sắt ( Fe ) ) hay bazan. Dung nham dạng này thường ít nhớt hơn nhiều so với dung nham rhyolit, tùy thuộc vào nhiệt độ phun trào ; chúng cũng thường nóng hơn dung nham felsic. Dung nham mafic Open trong nhiều trường hợp :
Magma phun trào chứa ≤ 45 % silica tạo ra dung nham ultramafic. Dòng chảy ultramafic, còn được gọi là komatiite, rất hiếm ; chỉ có vài dòng chảy như vậy Open trên bề mặt Trái Đất kể từ Liên đại Nguyên Sinh hàng trăm triệu năm về trước. Chúng là những dung nham nóng nhất, và có lẽ rằng lỏng hơn dung nham mafic thường thì .

Dòng chảy dung nham.

Dung nham Pāhoehoe từ núi lửa Kīlauea, Hawaii, Hoa KỳHai loại dòng chảy dung nham bazan được đặt tên theo cấu trúc mặt phẳng : ʻAʻa ( phát âm [ ˈʔaʔa ] ) và pāhoehoe ( [ paːˈho. eˈho. e ] ), cả hai đều là từ tiếng Hawaii. ʻAʻa có mặt phẳng thô giống clinker và thường thấy ở những dòng chảy dung nham nhớt. Ngay cả dòng chảy bazan hay mafic cũng hoàn toàn có thể phun trào thành ʻaʻa, đặc biệt quan trọng khi vụ nổ mạnh và sườn núi dốc .Pāhoehoe được đặc trưng bởi mặt phẳng trơn và gợn sóng hay nhăn nheo. Nó hình thành từ những dòng chảy dung nham lỏng, thường là dòng mafic với nhiệt độ cao và thành phần hóa học thích hợp giúp chúng chảy dễ hơn .

Hoạt động núi lửa.

Một cách phân loại núi lửa phổ biến là dựa trên tần suất hoạt động, với những núi lửa phun trào thường xuyên được gọi là còn hoạt động (hay đang hoạt động), những ngọn đã từng phun trào trong quá khứ nhưng bây giờ thì không gọi là ngủ yên hoặc không hoạt động, và những núi lửa không phun trào nữa được coi là đã tắt. Tuy nhiên hệ thống phân loại này, đặc biệt là loại đã tắt, thường không mang nhiều ý nghĩa đối với các nhà khoa học. Các nhà núi lửa học sử dụng quá trình hình thành và phun trào cũng như hình dáng của chúng để phân loại.

Còn hoạt động giải trí.

Không có định nghĩa thống nhất giữa những nhà núi lửa học về một núi lửa ” còn hoạt động giải trí “. Tuổi đời của núi lửa hoàn toàn có thể trải dài từ vài tháng đến vài triệu năm, khiến cho phân loại như vậy phần nhiều vô dụng khi so với tuổi đời của con người hay thậm chí còn nền văn minh. Ví dụ, nhiều núi lửa đã phun trào hàng chục lần trong hàng ngàn năm qua nhưng hiện không có tín hiệu phun trào. Xét trên tuổi đời của chúng, những núi lửa này rất tích cực, nhưng xét trên khoảng chừng thời hạn của con người, chúng không còn hoạt động giải trí .

Các nhà khoa học thường coi một núi lửa có khả năng phun trào nếu nó có dấu hiệu bất ổn như động đất khác thường hoặc lượng lớn khí ga thoát ra. Nhiều người coi một núi lửa còn hoạt động (tiếng Anh: active) nếu nó từng phun trào trong 10.000 năm qua (thế Holocene)—Chương trình núi lửa toàn cầu của viện Smithsonian sử dụng định nghĩa này. Hầu hết núi lửa còn hoạt động nằm trên Vành đai lửa Thái Bình Dương.[14] Khoảng 500 triệu người sống gần các núi lửa còn hoạt động.[14]

Lịch sử được ghi chép là một khoảng thời gian khác để chỉ còn hoạt động.[15][16] Quyển Catalogue of the Active Volcanoes of the World, xuất bản bởi Hiệp hội Quốc tế về Núi lửa, sử dụng định nghĩa này, gồm hơn 500 ngọn núi lửa.[15] Tuy nhiên, lịch sử được ghi chép ở mỗi khu vực là khác nhau. Tại Trung Quốc và vùng Địa Trung Hải, nó bắt đầu từ gần 3.000 năm trước, nhưng ở tây bắc Thái Bình Dương tại Mỹ và Canada, ít hơn 300 năm, và tại Hawaii và New Zealand, chỉ khoảng 200 năm.[15]

” Núi lửa đã tắt ” đổi hướng tới đây. Đối với thể loại núi lửa đã tắt, xem Thể loại : Núi lửa đã tắt Núi lửa Fourpeaked, Alaska, phun trào tháng 9 năm 2006 sau khi được cho là đã tắt hơn 10.000 năm Núi Rinjani phun trào năm 1994, tại Lombok, IndonesiaNúi lửa đã tắt là những núi lửa được coi là không có năng lực phun trào lần nữa do nguồn magma của nó bị hết sạch. Một số ví dụ là những núi lửa trên [ [ chuỗi núi ngầm Hawaii – Emperor ] ] ở Thái Bình Dương ( tuy một số ít núi lửa ở mạn đông vẫn còn hoạt động giải trí ), Hohentwiel ở Đức, Shiprock ở bang New Mexico, núi lửa Zuidwal tại Hà Lan, và nhiều núi lửa ở Ý như Monte Vulture. Lâu đài Edinburgh tại Scotland nằm trên một ngọn núi lửa đã tắt. Trong nhiều trường hợp, việc xác định liệu một ngọn núi lửa có thực sự đã tắt không dễ. Do những hõm chảo siêu núi lửa hoàn toàn có thể có tuổi đời lên đến hàng triệu năm, một hõm chảo không phun trào trong vài chục ngàn năm thường được coi là ngủ yên thay vì đã tắt. Một số nhà núi lửa học gọi núi lửa đã tắt là ngừng hoạt động giải trí, tuy nhiên từ này thường dùng để chỉ những núi lửa được coi là đã tắt nhưng hóa ra là đang ngủ .
Không dễ để phân biệt một núi lửa đã tắt với một núi lửa ngủ yên ( ngừng hoạt động giải trí ). Núi lửa ngủ yên là những núi lửa ngừng phun trào trong vài ngàn năm, nhưng có năng lực liên tục phun trào trong tương lai. [ 17 ] [ 18 ] Núi lửa thường được coi là đã tắt nếu không có ghi chép gì về hoạt động giải trí phun trào của nó. Mặc dù vậy, núi lửa hoàn toàn có thể ngủ yên trong thời hạn rất dài, để rồi lại phun trào. Ví dụ, núi lửa Yellowstone có thời hạn ngủ yên khoảng chừng 700.000 năm, và núi lửa Toba khoảng chừng 380.000 năm. [ 19 ] Núi lửa Vesuvius, theo lời những học giả La Mã, được phủ bởi mảng xanh và vườn nho trước vụ phun trào năm 79, hủy hoại những thành phố Herculaneum và Pompeii. Trước vụ phun trào thảm khốc năm 1991, Pinatubo là một núi lửa ít được biết đến với người dân xung quanh. Hai ví dụ khác nữa là núi lửa Soufrière Hills trên hòn đảo Montserrat, được cho là đã tắt trước khi hoạt động giải trí trở lại vào năm 1995, và Núi Fourpeaked ở Alaska, ngủ yên hơn 10.000 năm và được cho là đã tắt, nhưng lại phun trào vào tháng 9 năm 2006 .

Phun trào núi lửa.

Phun trào núi lửa, hiện tượng dung nham, mạt vụn và khí thoát ra ngoài miệng núi lửa, có nhiều loại khác nhau, và thường được đặt tên theo những ngọn núi lửa nổi tiếng nơi diễn ra loại phun trào ấy. Ba loại phun trào núi lửa chính là phun trào magma, phun trào phreatomagma, và phun trào phreatic.[20] Ngoài ra, người ta cũng chia các vụ phun trào thành phun trào bùng nổ (explosive), với những vụ nổ khí đẩy magma và mạt vụn lên cao, và phun trào chảy tràn (effusive), trong đó dung nham chảy ra mà không có vụ nổ lớn nào.[20]

Chỉ số sức nổ núi lửa ( hay chỉ số VEI ) là một thang đo từ 0 đến 8 để nhìn nhận độ mạnh của vụ phun trào, được dùng bởi Chương trình Núi lửa Toàn cầu của Viện Smithsonian. Nó hoạt động giải trí giống với thang đo Richter dùng cho động đất, trong đó mỗi khoảng chừng giá trị tượng trưng cho sự tăng gấp 10 lần trong độ lớn ( tức là thang logarit ). [ 21 ] Hầu hết những vụ phun trào núi lửa có VEI nằm trong khoảng chừng từ 0 đến 2. [ 22 ]

Phun trào magma.

Phun trào magma được đặc trưng bởi sự phóng đá vụn, dung nham và tro trong những đợt bùng nổ do áp suất khí trong lòng núi lửa. Độ lớn của loại phun trào này trải dài từ những đài dung nham trên Hawaii đến những cột phun trào cao hơn 30 km. Các loại phun trào magma chính đều được đặt tên theo tên núi lửa nổi tiếng, gồm có phun trào Hawaii, phun trào Stromboli, phun trào Vulcan, phun trào Pelée và phun trào Pliny .Phun trào Hawaii là loại phun trào nhẹ nhất, hầu hết là phun trào chảy tràn dung nham dạng bazan rất nhớt và ít khí. Chúng hoàn toàn có thể lê dài trong thời hạn rất lâu ; Puʻu ʻŌʻō, một nón núi lửa trên hòn đảo Kīlauea, đã phun trào suốt 35 năm, còn núi Etna trên hòn đảo Sicily thì hoạt động giải trí gần như liên tục. [ 23 ] trái lại, phun trào Pliny, đặt tên theo Pliny Trẻ, người ghi chép về vụ phun trào núi Vesuvius năm 79, lại mạnh hơn rất nhiều, với những cột núi lửa cao đặc trưng, lên tới 2 đến 45 km vào bầu khí quyển. [ 24 ]

Phun trào phreatomagma.

Phun trào phreatomagma xuất phát từ sự gặp nhau của nước và magma. Chênh lệch nhiệt độ lớn giữa hai chất này dẫn đến phản ứng co nhiệt kinh hoàng, tạo thành đợt phun trào. Sản phẩm của phun trào phreatomagma được cho là đều và mịn hơn so với phun trào magma do sự độc lạ trong chính sách phun trào. [ 25 ]Các dạng phun trào phreatomagma gồm có phun trào Surtsey, đặt tên theo hòn hòn đảo núi lửa Surtsey ngoài khơi Iceland, phun trào ngầm diễn ra ở dưới nước, và phun trào dưới băng do dung nham và băng gặp nhau tạo thành .

Phun trào phreatic.

Phun trào phreatic ( hay phun trào hơi nước ) là dạng phun trào do sự co và giãn của hơi nước. Khi mặt đất hay mặt nước lạnh tiếp xúc với đá nóng hay magma nó trở nên nóng nhanh và nổ, phá vỡ lớp đá xung quanh [ 26 ] và đẩy ra một hỗn hợp hơi nước, nước, tro, bom và khối núi lửa. [ 27 ] Điểm đặc biệc của những vụ nổ phreatic là chúng chỉ bắn ra những mảnh vụn của đá có trong lòng núi lửa chứ không phun ra magma từ dưới lòng đất. [ 28 ]

Núi lửa điển hình nổi bật.

Hoạt động tích cực.

Dung nham Pāhoehoe từ núi Kīlauea đổ vào biển Thái Bình DươngNgọn núi lửa thường được xem là hoạt động giải trí tích cực nhất là Kīlauea, ngọn núi lửa nổi tiếng ở Hawaii, phun trào gần như liên tục từ năm 1983 đến năm 2018 ( dung nham chảy trên mặt đất suốt thời hạn này ), và có hồ dung nham lâu nhất được ghi nhận. [ 29 ] [ 30 ] Một số núi lửa tích cực khác là :
Theo tài liệu của Chương trình Núi lửa Toàn cầu, tính đến ngày 4 tháng 6 năm 2020, những núi lửa với thời hạn phun trào dài nhất ( bỏ lỡ những khoảng chừng thời hạn ngừng hoạt động giải trí dưới ba tháng ) là : [ 31 ]

  • Núi Yasur, 246 năm
  • Santa María, 98 năm
  • Dukono, 87 năm
  • Stromboli, 86 năm
  • Sangay, 77 năm

Tất cả ngọn núi lửa trên, trừ núi lửa Sangay tại Ecuador, đều vẫn đang hoạt động giải trí trong tháng 6 năm 2020. [ 31 ]

Núi lửa Thập niên.

Núi lửa Thập niên là 16 núi lửa được Thương Hội Quốc tế về Núi lửa và Hóa học lòng Trái Đất ( IAVCEI ) liệt kê là đáng quan tâm do từng có những vụ phun trào lớn và nằm gần khu vực có người ở. Chúng được đặt tên là Núi lửa Thập niên vì dự án Bất Động Sản này được khởi xướng bởi Thập niên Quốc tế về Giảm thiểu Thiên tai ( những năm 1990 ) do Liên Hiệp Quốc hỗ trợ vốn. Dự án này khuyến khích nghiên cứu và điều tra và những hoạt động giải trí tuyên truyền nhằm mục đích đạt được sự hiểu biết và năng lực sẵn sàng chuẩn bị trong trường hợp thiên tai .Bảng sau liệt kê 16 núi lửa thập niên này. [ 32 ]
Biểu đồ bức xạ mặt trời 1958 – 2008, cho thấy bức xạ giảm sau những vụ phun trào lớnCó nhiều loại phun trào núi lửa và tương ứng với đó là những mối nguy hại với con người, như vụ nổ phun trào, lở đất, lahar, dòng chảy pyroclastic, khí núi lửa .

Khí núi lửa.

Sơ đồ sự phun trào những khí và aerosol từ núi lửaHơi nước thường là khí núi lửa thông dụng nhất, theo sau là cacbon dioxide và lưu huỳnh dioxide. [ 33 ] Những khí núi lửa thường gặp khác gồm có hydro sulfide, hydro chloride, và hydro fluoride. Một lượng lớn những khí hydro, cacbon monoxit, halocacbon, hợp chất hữu cơ, và muối chloride sắt kẽm kim loại cũng sống sót trong khí núi lửa .

Mùa đông núi lửa.

Những vụ phun trào núi lửa lớn phun hơi nước ( H2O ), cacbon dioxide ( CO2 ), lưu huỳnh dioxide ( SO2 ), hydro chloride ( HCl ), hydro fluoride ( HF ) và tro ( đá mịn và đá bọt ) vào tầng bình lưu ở độ cao 16 – 32 kilomét trên mặt phẳng Trái Đất. Tác động lớn nhất của chúng đến từ việc quy đổi lưu huỳnh dioxít thành axít sulfuric ( H2SO4 ), ngưng tụ nhanh trong tầng bình lưu, tạo thành aerosol sulfat. [ 34 ] Những aerosol này làm tăng suất phản chiếu của Trái Đất và làm lạnh đi tầng khí quyển thấp, trong khi hấp thụ nhiệt từ mặt phẳng và làm ấm tầng bình lưu. [ 35 ] Một vài vụ phun trào núi lửa lớn trong thập niên qua đã làm nhiệt độ trung bình của bề mặt Trái Đất giảm đến 0,4 độ C. [ 36 ]
Một số giả thiết cho rằng hoạt động giải trí núi lửa đã gây ra hoặc góp thêm phần vào những sự kiện tuyệt chủng cuối Ordovic, Permi-Trias, Devonian muộn. Sự kiện phun trào hình thành nên bẫy Siberia diễn ra trong một triệu năm và nhiều năng lực đã gây ra sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi – kỷ Trias khoảng chừng 250 triệu năm trước, [ 37 ] được ước tính là đã giết đến 90 % số loài khi đó. [ 38 ]Một mùa đông núi lửa được cho là đã xảy ra khoảng chừng 70,000 năm về trước sau vụ phun trào của siêu núi lửa Toba trên Đảo Sumatra ở Indonesia. [ 39 ] Theo thuyết thảm họa Toba được 1 số ít nhà nhân chủng và khảo cổ học đề xướng, sự kiện này đã có ảnh hưởng tác động toàn thế giới, [ 40 ] giết chết phần nhiều con người thời gian đó và tạo ra một cổ chai di truyền ảnh hưởng tác động đến sự di truyền của tổng thể con người ngày này. [ 41 ]Vụ phun trào năm 1815 của Núi Tambora tạo nên sự không bình thường trong khí hậu toàn thế giới và được gọi là ” Năm không có mùa hè ” do tác động ảnh hưởng đến thời tiết Bắc Mỹ và châu Âu. [ 42 ] Thu hoạch mùa vụ giảm sút và gia súc chết hàng loạt ở bán cầu Bắc, dẫn đến một trong những nạn đói tồi tệ nhất thế kỷ 19. [ 43 ]
Cột khói bốc lên từ Eyjafjallajökull ngày 17 tháng 4 năm 2010Aerosol sunfat dẫn đến những phản ứng hóa học phức tạp trên mặt phẳng làm đổi khác thành phần clo và nitơ trong tầng bình lưu. Khi aerosol tăng về số lượng và đông lại, chúng rơi xuống phần trên tầng đối lưu và hình thành mây ti và đổi khác cân đối bức xạ của Trái Đất. Hầu hết hydro chloride ( HCl ) và hydro fluoride ( HF ) tan trong giọt nước và rơi xuống đất tạo thành mưa axit. [ 44 ] Một ví dụ tiêu biểu vượt trội là núi lửa Masaya ở Nicaragua, nơi liên tục phun ra khí lưu huỳnh dioxide, gây ra mưa axit ở những vùng cách xa hàng trăm kilomét. [ 45 ]

Núi lửa trên những thiên thể khác.

Núi lửa Tvashtar phun trào với cột khói cao 330 km trên mặt phẳng Io, vệ tinh của Sao MộcMặt Trăng của Trái Đất không có núi lửa lớn nào, mặc dầu dẫn chứng gần đây cho thấy nó hoàn toàn có thể có lõi còn nóng chảy. [ 46 ] Tuy nhiên, Mặt Trăng có nhiều dạng địa hình núi lửa như là biển ( vùng sẫm màu trên mặt phẳng mặt trăng ), rille và vòm .

Có một vài núi lửa đã tắt trên Sao Hỏa, bốn trong số đó là những núi lửa khiên lớn hơn những núi lửa trên Trái Đất rất nhiều. Chúng là Arsia Mons, Ascraeus Mons, Hecates Tholus, Olympus Mons, và Pavonis Mons. Những núi lửa nảy đã ngừng hoạt động hàng triệu năm,[47] nhưng tàu thăm dò Mars Express của châu Âu đã tìm thấy bằng chứng cho thấy hoạt động núi lửa có thể đã diễn ra trên Sao Hỏa trong quá khứ gần.[47]

Vệ tinh của Sao Mộc, Io, là thiên thể hoạt động giải trí núi lửa tích cực nhất trong hệ mặt trời do tương tác thủy triều với Sao Mộc. [ 48 ] Nó được bao trùm bởi núi lửa phun trào lưu huỳnh, lưu huỳnh dioxide và đá silicat, khiến cho mặt phẳng của Io luôn được bồi thêm. Dung nham của nó nóng nhất trong hệ mặt trời, với nhiệt độ vượt quá 1.800 K ( 1.500 °C ). Tháng 2 năm 2001, vụ phun trào núi lửa lớn nhất trong hệ mặt trời được ghi nhận trên Io. [ 49 ] Một nghiên cứu và điều tra năm 2010 về hành tinh ngoài hệ Mặt Trời COROT-7b, chỉ ra rằng gia nhiệt thủy triều từ ngôi sao 5 cánh chủ gần với hành tinh đó hoàn toàn có thể gây ra hoạt động giải trí núi lửa can đảm và mạnh mẽ như ở trên Io. [ 50 ]Europa, vệ tinh Galileo nhỏ nhất, cũng có một mạng lưới hệ thống núi lửa đang hoạt động giải trí, chỉ khác là hoạt động giải trí của nó trọn vẹn dựa trên nước, ướp lạnh thành băng trên mặt phẳng. [ 51 ] Năm 1989 tàu ngoài hành tinh Voyager 2 quan sát núi lửa băng trên Triton, một vệ tinh của Sao Hải Vương, và vào năm 2005 tàu thăm dò Cassini – Huygens chụp đài phun hạt ngừng hoạt động trên Enceladus, một vệ tinh của Sao Thổ. [ 52 ] [ 53 ] Vật chất phun trào hoàn toàn có thể chứa nước, nitơ lỏng, amonia, bụi, hoặc hợp chất chứa metan. Cassini – Huygens cũng tìm thấy dẫn chứng cho núi lửa băng phun trào metan trên vệ tinh Sao Thổ, Titan, được cho là góp thêm phần vào thành phần metan trong khí quyển của vệ tinh này. [ 54 ]

Liên kết ngoài.

Exit mobile version