Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Phước đức và công đức


PHƯỚC ĐỨC VÀ CÔNG ĐỨC


Công đức và phước đức khác nhau thế nào?

Bạn đang đọc: Phước đức và công đức

Công đức là do tu tâm, rõ được bản tâm sáng suốt nơi chính mình rồi từ đó mỗi lời nói, hành vi, tâm lý đều hợp với đạo lý làm người, làm điều gì cũng không sai lầm, không bị dính mắc hay trói buộc. Còn phước đức là diệu dụng của công đức, là tác dụng của hành vi làm những việc thiện lành như giúp người hoạn nạn, san sẻ vật chất, ý thức giúp người bớt khốn khổ v.v … tạo nên những nhân tốt. Người thao tác phước đức nhiều được hưởng quả giàu sang, giàu sang, của tiền dư dật ở trần gian hay được sanh vào cõi trời. Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào những cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng đến khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, trở lại trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Chỉ có nguời công đức rất đầy đủ không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi thực trạng. Để hiểu rõ công đức và phước đức khác nhau thế nào, tất cả chúng ta cùng nghe câu truyện thời đức Phật : Có một Tỳ-kheo tu hành đã chứng quả A-la-hán, không còn bị tham, sân, si chi phối trong bất kể thực trạng nào. Người chứng quả A-la-hán sẽ bất động trước mọi nghịch cảnh cuộc sống. Do nhiều đời tích góp công đức nên vị Tỳ-kheo này trong đời hiện tại được duyên tu hành chứng quả, nhưng do đời trước không làm phước đức gieo duyên với mọi người, lại còn phỉ báng, ngăn cản người khác thực hành thực tế bố thí, cúng dường, nên sanh ra trong đời này Ngài phải chịu khổ đau một thời hạn dài. Ngài bị mẹ bỏ rơi lúc 3,4 tuổi, được ngài Xá Lợi Phất đem về nuôi cho xuất gia đầu Phật. Và cuộc sống tu hành của Ngài rất gay cấn, khổ nhọc, thiếu thốn trăm bề, cho đến khi chứng quả A-la-hán mà Ngài vẫn chưa được một bữa cơm nào thật no đủ. Do nghiệp đời trước ngăn cản người bố thí, cúng dường mà đời nay Ngài phải chịu lãnh quả thiếu ăn suốt đời như vậy. Nhân quả nghiệp báo sẽ không từ bỏ một ai khi hội đủ nhân duyên, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ là định luật rất công minh không có sai biệt. Vì vậy, người Phật tử phải biết sáng suốt lựa chọn, đừng để đến lúc gặt quả xấu rồi than thân trách phận, đổ thừa tại này, tại nọ để rồi chuốt lấy khổ đau. Bậc Thánh nhân khi gặp quả xấu, do có trí tuệ sáng suốt thấy rõ được nhân quả nghiệp báo, nên không buồn đau sầu khổ. Thân này tuy chịu quả thiếu thốn đói khát, nhưng tâm vẫn an nhiên tự tại trước mọi thực trạng. Người khôn ngoan phải biết lựa chọn con đường tốt đẹp dẫn đến an vui niềm hạnh phúc, biết làm phước để tích góp, nếu không biết tích góp thêm phước đức, đến khi hết phước sẽ gặp tai ương. Còn công đức là sự tu tâm, sửa đổi, chuyển hóa những tâm niệm tà vạy, tham lam, ích kỷ, hiểm độc, ganh ghét, vì vậy vị Tỳ kheo ấy dù bị đói khát, thiếu thốn nhưng không khổ tâm vì biết nhân quả nghiệp xấu chiêu cảm. Cái hay của người tu hành là ở chỗ đó. Và đó cũng là chỗ khác nhau của công đức và phước đức. Để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa của công đức và phước đức tất cả chúng ta hãy nghe câu truyện thiền như sau : Tổ Bồ-đề-đạt-ma là vị tổ thứ 28 ở Ấn Độ, do nhu yếu hoằng pháp nên Ngài đã đến Nước Trung Hoa gặp vua Lương Võ Đế. Vua hỏi : “ Trẫm thường cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống rất nhiều vậy có công đức không ? Tổ đáp : “ Thảy đều không công đức. ” Nghe thế, vua sửng sốt, bàng hoàng, đâm ra hoài nghi hỏi tiếp. Tại sao không công đức ? Tổ đáp : Đó là phước báu trần gian được hưởng phước báo làm người giàu sang, mưu trí, mẫn tiệp ở cõi trời, người, như bóng theo hình, tuy có nhưng không bền chắc vĩnh viễn. Vua Lương Võ Đế tưởng rằng làm những việc phước thiện như vậy là công đức cao quý, nên chấp vào việc làm của mình, bị Tổ tạt cho một gáo nước lạnh, “ tá hỏa tam tinh. ” Bởi vua Lương nhầm lẫn giữa phước đức và công đức.

Mục đích của Tổ sang Trung Hoa là chỉ rõ cho mọi người nhận ra bản tâm chân thật sẵn có nơi mỗi người. Bởi đa số người đời thường lầm chấp thân và tâm suy tư, nghĩ tưởng của mình là thật nên làm cái gì cũng tìm cách chiếm đoạt, vơ vét bồi bổ cho cái thân xác để hưởng thụ cảm xúc. Vua Lương nghĩ rằng, cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh sách, say mê việc làm phước là công đức, nên Tổ mới phá chấp để nhà vua nhận ra bản tâm chân thật của mình, mà hiểu đúng lý giác ngộ, giải thoát của đạo Phật.

Bởi vì nhà vua không hiểu thế nào là công đức, chỉ một bề lầm chấp công lao của mình, cho đó là cứu cánh của đạo Phật. Nhà vua không hiểu ý sâu xa của Tổ, dù đang là vị vua trên những vua khác, được hưởng phước cao sang tột đỉnh, vẫn bị quy luật vô thường chi phối, rốt cuộc vẫn trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau. Còn chỗ Tổ muốn chỉ cho nhà vua là dừng lặng những tâm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, để sống lại với tâm sáng suốt của mình ( Phật tánh ). Từ đó, nhà vua sẽ không còn có bóng hình của sợ hãi, khổ đau mà hằng an nhàn thảnh thơi chan hòa tình thương đến muôn loài. Cho nên đến với đạo Phật có hai hình thức : tại gia và xuất gia. Song xuất gia là số ít, còn đại đa số là người tại gia. Người xuất gia nguyện suốt đời đi theo lý tưởng giác ngộ, giải thoát, thấy tổng thể mọi người đều là người thân trong gia đình, người thương của mình, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Vì vậy người xuất gia nêu cao ý thức quyết tử vì Tam Bảo, còn người tại gia ngoài việc lo cho mái ấm gia đình và xã hội, đồng cảm lý nhân quả, nghiệp báo cần tự giác phát tâm hộ trì Tam Bảo, trợ giúp vật chất để người xuất gia ( chư Tăng Ni ) có điều kiện kèm theo, thời hạn tu học và hành trì. Việc làm của vua Lương Võ Đế quả là một điều khó làm. Bởi Ngài là vua một nước, trăm công, ngàn việc, nhưng Ngài vẫn tranh thủ thời hạn làm những việc khó làm. Lương Võ Đế là ông vua cư sĩ trên đời này làm được như vậy là hiếm có, giúp cho dân chúng định cư lạc nghiệp, sống trên ý thức đoàn kết giúp sức lẫn nhau, do đó trong nước rất ít tệ nạn xã hội. Người người theo Phật tu nhân thiện Mười phương quốc tế dứt binh đao. Việc làm của vua Lương Võ Đế quả thật là tuyệt vời so với đời sống trần gian, nhưng vì Ngài lầm chấp cho rằng đó là cứu cánh của đạo Phật nên mới hỏi Tổ : “ Con cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh ấn tống có công đức không ? ” Tổ đáp : Đều không công đức. Vua hỏi tiếp : Thế nào là Thánh đế đệ nhất nghĩa ? Tổ đáp : Rỗng rang không Thánh. Thánh đế đệ nhất nghĩa là chỉ cho thật tướng vô tướng rỗng lặng sáng suốt thanh tịnh nơi mỗi con người. Bởi vua chạy theo danh tự và hình tướng bên ngoài nên không nhận ra trong mình có ông Thánh đang hiện hữu sờ sờ. Vì vậy vua hỏi : – Đối diện trẫm là ai ? – Tổ đáp : không biết !

Đến thời Lục Tổ Huệ Năng, có người đọc đoạn đối đáp của vua Lương Võ Đế với Tổ Bồ-đề-đạt-ma mới hỏi, Tổ đáp: Thật không có công đức, chớ nghi lời bậc Thánh nói. Vì vua Lương Võ Đế không hiểu được yếu nghĩa khai thị trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật”
nên cho rằng cất chùa, độ Tăng, Ni, in kinh bố thí là công đức, thực chất đó chỉ là làm phước, không thể đem phước đổi công đức được.

Công đức là do tu tâm mà được ; tự tu tánh là công, tự tu thân là đức, đức phải do nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà được. Do đó, công đức là do tu tâm rõ bản tánh rỗng lặng nhưng hằng thấy biết. Còn những việc làm của vua Lương Võ Đế là do nhân quả phước báu của trời, người. Có phước thì được giàu sang, có nhiều của cải quyền thế, tận hưởng vật chất không thiếu, tuy nhiên tận hưởng phước báu mà không biết kiệm phước thì cũng có ngày hết, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử. Do đó, có phước mà thiếu công đức dễ dẫn đến phiền não, chấp trước, thấy mình là người bố thí, kẻ thọ nhận phải biết ơn mình, sanh tâm cống cao, ngã mạn, nhiều khi thấy người thọ nhận vô ơn, bạc nghĩa, không biết nhớ ơn họ mà còn sanh tâm coi thường khinh rẽ họ, không những bị mất phước mà còn phải mang lấy tội quả xấu nữa.

Vì vậy, là người con Phật, chúng ta phải biết quân bình, một mặt tích
lũy phước báu. Nhờ có phước ta dễ có điều kiện tu học, một mặt tích cực tu tâm để chuyển hóa khổ đau khi đối diện nghịch cảnh cuộc đời. Trái lại, người đã sống với tâm chân thật, dù có bố thí đúng dường, làm nhiều
phước thiện, cũng đều là công đức cả, vì họ làm trong vô tâm.

Vô tâm là tâm rỗng lặng sáng suốt không bị dính mắc, chấp thủ vào việc mình làm, chỉ tùy thời, tùy duyên làm quyền lợi, không thấy mình là người bố thí, không thấy người thọ nhận và vật thí, do đó được an nhiên, tự tại trước mọi thực trạng trái ngang. Nếu ta biết tích hợp làm phước và tu tâm, thì khổ đau sẽ không xuất hiện trong hành trình dài gay cấn của cuộc sống.

Exit mobile version