Luân Đôn (tiếng Anh: London; phát âm tiếng Anh: /ˈlʌndən/) là thủ đô kiêm thành phố lớn nhất của Anh (England) và của cả Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (UK). Luân Đôn được người La Mã lập ra 2000 năm trước đây với tên gọi đầu tiên là Londinium (Luân Đôn thuộc La Mã).[1] Trung tâm chính từ xa xưa của Luân Đôn là Thành phố Luân Đôn, hiện vẫn giữ được ranh giới rộng hàng dặm vuông từ thời Trung Cổ trên quy mô lớn. Sớm nhất cũng từ thế kỷ 19, tên gọi “London” mới được biết đến như một đô thị lớn phát triển quanh trung tâm chính.[2] Sự sáp nhập của những vùng đô thị liên hoàn tạo thành vùng Luân Đôn[3] và vùng hành chính Đại Luân Đôn,[4][note 1] do thị trưởng Luân Đôn và Hội đồng Luân Đôn điều hành thông qua đắc cử.[5]
Luân Đôn là một thành phố toàn cầu, cùng với Thành phố New York là hai trung tâm kinh tế-tài chính lớn nhất thế giới.[6][7][8] và có GDP thành phố lớn nhất châu Âu.[9] Trụ sở của hầu hết 100 công ty hàng đầu Vương quốc Anh và hơn 100/500 công ty lớn nhất châu Âu nằm tại trung tâm Luân Đôn. Sự ảnh hưởng của Luân Đôn đối với chính trị, tài chính, giáo dục, giải trí, truyền thông, thời trang, nghệ thuật và văn hóa đã mang lại vị thế thành phố toàn cầu và Caput Mundi cho Luân Đôn. Đây là một điểm đến du lịch lớn đối với du khách nội địa và quốc tế. Luân Đôn đã đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1908 và Thế vận hội Mùa hè 1948 và Thế vận hội Mùa hè 2012.[10] Luân Đôn có 4 di sản thế giới: Tháp Luân Đôn; Vườn thực vật Hoàng gia, Kew; khu vực bao gồm Cung điện Westminster, Westminster Abbey và Giáo đường St. Margaret; khu định cư lịch sử Greenwich (trong đó có Đài thiên văn Hoàng gia đánh dấu kinh tuyến 0° (Greenwich Meridian) và giờ trung bình Greenwich (GMT).[11]. Các địa danh nổi tiếng khác bao gồm Cung điện Buckingham, London Eye, Giao lộ Piccadilly, Nhà thờ St Paul, Cầu Tháp Luân Đôn, Quảng trường Trafalgar, The Shard và Bảo tàng Anh. London Underground là mạng lưới tàu điện ngầm lâu đời nhất trên thế giới.
Luân Đôn có thành phần dân tộc, văn hóa, tôn giáo đa dạng, có hơn 300 ngôn ngữ được sử dụng.[12] Tại thời điểm tháng 7 năm 2016, thành phố có dân số chính thức là 8,787,892 người trong Đại Luân Đôn [13], khiến nó là đô thị đông dân nhất Liên minh châu Âu.[14] Vùng đô thị Đại Luân Đôn (Greater London Urban Area) (vùng đô thị lớn thứ hai ở châu Âu) có dân số 9,787,426 [15]. Còn vùng đô thị Luân Đôn lớn nhất châu Âu với dân số 14,040,163 người vào năm 2016 [16]. Thống kê cho thấy chưa đến 70% dân số Luân Đôn là người da trắng, điều này cho thấy Luân Đôn có tính quốc tế cao.[17] Hệ thống tàu điện ngầm Luân Đôn do Cục Vận tải Luân Đôn (Transport for London) quản lý, là hệ thống tàu điện ngầm cổ nhất thế giới.[18] Sân bay Heathrow London là sân bay bận rộn nhất thế giới theo lượt khách quốc tế[19] với không gian hàng không tấp nập hơn bất cứ trung tâm đô thị nào trên thế giới.[20]
Bạn đang đọc: Luân Đôn – Wikipedia tiếng Việt
“London” là một tên cổ, đã được chứng thực vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, thường ở dạng Latinh Londinium; ví dụ, các viên thuốc La Mã viết tay được thu hồi trong thành phố có nguồn gốc từ 65/ 70-80 sau Công nguyên bao gồm từ Londinio (“ở Luân Đôn”).
Trong những năm qua, cái tên đã thu hút nhiều lời giải thích hoang đường. Chứng thực sớm nhất xuất hiện trong Historia regum Britanniae của Geoffrey Monmouth, được viết vào khoảng năm 1136. Điều này có nghĩa là cái tên bắt nguồn từ một vị vua được cho là vua Lud, người được cho là đã chiếm lấy thành phố và đặt tên là Kaerlud.
Các phân tích khoa học hiện đại về tên phải giải thích nguồn gốc của các dạng khác nhau được tìm thấy trong các nguồn gốc tiếng Latinh (thường là Londinium), tiếng Anh cổ (thường là Lunden) và tiếng Wales (thường là Llundein), có liên quan đến sự phát triển đã biết theo thời gian của âm thanh những ngôn ngữ khác nhau. Người ta đồng ý rằng tên này được sử dụng trong các ngôn ngữ này từ Common Brythonic; công việc gần đây có xu hướng xây dựng lại hình thức Celtic bị mất của cái tên là * [Londonjon] hoặc một cái gì đó tương tự. Điều này đã được chuyển thể sang tiếng Latinh là Londinium và mượn sang tiếng Anh cổ, ngôn ngữ tổ tiên của tiếng Anh hiện đại.
Các từ đồng nghĩa của hình thức Brythonic thường được tranh luận nhiều. Một lời giải thích nổi bật là lập luận năm 1998 của Richard Coates rằng cái tên bắt nguồn từ tiếng tiền Celtic vào giai đoạn châu Âu thời cổ *(p)lowonida, có nghĩa là “dòng sông quá rộng để vượt qua”. Coates cho rằng đây là một cái tên được đặt cho một phần của sông Thames chảy qua London; từ điều này, khu định cư đã đạt được hình thức Celtic của tên của nó, *Lowonidonjon. Tuy nhiên, hầu hết các công trình đã chấp nhận một nguồn gốc Celtic cho tên này, và các nghiên cứu gần đây đã ủng hộ một lời giải thích dọc theo dòng dẫn xuất Celtic của một gốc tiếng Ấn-Âu nguyên thủy *lendh- (‘chìm, gây ra chìm’), kết hợp với hậu tố Celtic * -injo- hoặc * -onjo- (được sử dụng để tạo tên địa danh). Peter Schrijver đã đề nghị cụ thể, trên cơ sở đó, tên ban đầu có nghĩa là ‘nơi lũ lụt (theo định kỳ, theo thời gian)’.
Cho đến năm 1889, cái tên ” London ” được vận dụng cho Thành phố Luân Đôn, nhưng kể từ đó, nó cũng được gọi là Quận Luân Đôn và Đại Luân Đôn. ” London ” đôi lúc được viết không chính thức là ” LDN ” .
Nội dung chính
- 0.1 Tên gọi và tên viết trong tiếng Việt.
- 0.2 Thời tiền sử.
- 0.3 Buổi đầu của Luân Đôn.
- 0.4 Thời Norman và trung cổ.
- 0.5 Thời cận đại.
- 0.6 Sự đi lên của Luân Đôn tân tiến.
- 0.7 Chính quyền địa phương.
- 0.8 Chính quyền vương quốc.
- 0.9 Chính sách và tội phạm.
- 0.10 Tình trạng pháp lý.
- 0.11 Cảnh quan thành phố.
- 0.12 Các khu vui chơi giải trí công viên và khu vườn.
- 0.13 Lịch sử tự nhiên.
- 0.14 Cấu trúc tuổi và tuổi trung bình.
- 0.15 Các nhóm dân tộc bản địa.
- 0.16 Truyền thông và công nghệ tiên tiến.
- 0.17 Đường sắt đô thị.
- 0.18 Xe buýt và xe điện.
- 0.19 Cảng và sông.
- 0.20 Giáo dục đào tạo ĐH.
- 0.21 Giáo dục đào tạo tiểu học và trung học.
- 0.22 Thư giãn và vui chơi.
- 0.23 Văn học, phim ảnh và truyền hình.
- 0.24 Bảo tàng và triển lãm thẩm mỹ và nghệ thuật.
- 1 Thành phố kết nghĩa.
- 2 Liên kết ngoài.
Tên gọi và tên viết trong tiếng Việt.
Tên gọi của thành phố này trong tiếng Việt là âm Hán Việt của hai chữ Hán “Luân Đôn” (giản thể: 伦敦, phồn thể: 倫敦, pinyin: lún dūn) mà người Trung Quốc dùng với âm tương ứng trong tiếng Quan Thoại để phiên âm từ “London”. Nếu đọc từ tiếng Anh, phiên âm tiếng Việt của tên thành phố này là “Lăn-đân” (ˈlʌndən). Mặc dù người Việt vẫn thường đọc là “Luân Đôn”, nhưng trong văn viết tiếng Việt (đặc biệt ở mảng truyền thông) thì cách viết theo từ gốc là “London” phổ biến hơn so với cách viết “Luân Đôn”.[21][22][23]
Thời tiền sử.
Năm 1993, phần còn lại của cây cầu thời đại đồ đồng đã được tìm thấy ở bờ biển phía nam, thượng nguồn của cầu Vauxhall. Cây cầu này hoặc băng qua sông Thames hoặc đến một hòn hòn đảo đã mất trong đó. Hai trong số những loại gỗ này được định niên đại bằng cacbon phóng xạ, có từ năm 1750 trước Công nguyên và 1285 trước Công nguyên .Vào năm 2010, nền móng của một cấu trúc gỗ lớn, có niên đại từ năm 4800 trước Công nguyên đến 4500 trước Công nguyên, đã được tìm thấy trên bờ biển phía nam của sông Thames, ở hạ lưu cầu Vauxhall. Chức năng của cấu trúc mesolithic không được biết đến. Cả hai cấu trúc đều nằm ở bờ phía nam nơi sông Effra chảy vào sông Thames .
Buổi đầu của Luân Đôn.
Mặc dù có một số bằng chứng về các khu dân cư rải rác trước thời La Mã trong khu vực này, khu dân cư lớn đầu tiên được thành lập bởi Đế chế La Mã vào năm 43, theo sau sự xâm lược đảo Anh của quân đội La Mã. Khu dân cư này được gọi là Londinium, được tin là nguồn gốc của tên gọi ngày hôm nay, mặc dù nguồn gốc Celt cũng là một khả năng.
Luân Đôn tiên phong chỉ sống sót trong vòng 17 năm. Khoảng năm 61, bộ tộc Iceni của người Celt chỉ huy bởi Nữ hoàng Boudica đánh ập vào Luân Đôn, đốt sạch thành phố. Kế tiếp, sự tái sinh với nhiều quy hoạch lớn của thành phố tăng trưởng mạnh và gộp luôn cả Colchester như là TP. hà Nội của Britannia như là một tỉnh La Mã vào năm 100. Vào thời kỳ đỉnh điểm vào thế kỷ thứ 2, Luân Đôn thời La Mã có dân số khoảng chừng 60.000 người. Tuy nhiên, vào thế kỉ thứ 3, thành phố mở màn suy yếu dần do những yếu tố nội bộ của Đế chế La Mã. vào thế kỉ thứ 5, nó bị bỏ phí khi đế quốc La Mã diệt vong, mặc dầu nền văn minh La Mã vẫn liên tục ở khu vực St Martin-in-the-Field cho đến khoảng chừng năm 450 .
Cho đến năm 500, người Anglo-Saxon đã tạo lập nên một khu dân cư mới (gọi là Lundenwic) vào khoảng 1 km về phía thượng nguồn của thành phố La Mã cũ, quanh khu vực ngày nay là Vườn Covent. Có lẽ là có một cảng biển tại cửa sông Fleet cho việc đánh cá và thương mại, và khu thương mại này nhanh chóng phát triển. Đến khoảng năm 680, thành phố đã tái sinh thành một cảng lớn, mặc dù có rất ít bằng chứng về sản xuất quy mô lớn cho đến khi thảm họa xảy đến vào năm 851, khi sự phòng thủ xiêu vẹo của thành phố mới bị vượt qua bởi sự càn quét của người Viking và nó bị san bằng.
Người Viking đã thành lập Danelaw trên phần lớn miền đông và miền bắc nước Anh; ranh giới của nó kéo dài khoảng từ London đến Chester. Đó là một khu vực kiểm soát chính trị và địa lý được áp đặt bởi các cuộc xâm lược của người Viking đã được lãnh chúa Đan Mạch, Guthrum và vua Tây Saxon Alfred Đại đế đồng ý vào năm 886. Sự chiếm đóng bởi người Viking hai mươi năm sau không tồn tại lâu, và Alfred Đại đế, vua mới của nước Anh, thiết lập hòa bình và dời khu dân cư vào trong khu thành phòng thủ của thành phố La Mã cũ (sau đó gọi là Lundenburgh). Thành phố nguyên thủy trở thành Ealdwīc (“thành phố cũ”), một cái tên tồn tại cho đến ngày nay như là Aldwych. Luân Đôn sau đó tăng trưởng chậm cho đến khoảng 950, sau đó hoạt động tăng lên đáng kể.
Tiếp sau đó, dưới sự quản lý của nhiều vị vua Anh khác nhau, một lần nữa Luân Đôn lại phát triển như là một trung tâm thương mại quốc tế và chính trị. Tuy vậy, sự càn quét của người Viking lại bắt đầu trong cuối thế kỉ thứ 10, và đạt đến đỉnh cao vào năm 1013 khi họ bao vây thành phố dưới sự chỉ huy của vua Đan Mạch Canute và buộc vua Anh Aethelred II (Aethelred the Unready) tháo chạy. Trong một cuộc tấn công trả đũa, quân đội của Aethelred đã đạt được thắng lợi bằng cách kéo sập cầu Luân Đôn với đồn Đan Mạch ở trên đỉnh, và sự kiểm soát của người Anh lại được tái thiết lập.
Canute chiếm được ngôi vua Anh vào năm 1017, kiểm soát thành phố và đất nước cho đến năm 1042, khi cái chết của ông ta đã trả lại quyền kiểm soát cho người Anglo-Saxon dưới thời người con ghẻ của ông là Edward Người thú tội (Edward the Confessor), người tái thiết lại Tu viện Westminster và Cung điện Westminster cạnh đó. Vào thời điểm này, Luân Đôn đã trở thành thành phố lớn nhất và thịnh vượng nhất ở Anh, mặc cho địa điểm chính thức của nhà nước vẫn còn ở Winchester.
Đến thế kỷ 11, Luân Đôn vượt xa mọi thị xã lớn nhất nước Anh. Cung điện Westminster, được thiết kế xây dựng lại theo phong thái La Mã của Vua Edward the Confession, là một trong những nhà thời thánh lớn nhất ở châu Âu. Winchester trước kia là Hà Nội Thủ Đô của Anglo-Saxon Anh, nhưng kể từ thời gian này, Luân Đôn trở thành nơi giao thương chính cho những thương nhân quốc tế và là địa thế căn cứ để phòng thủ trong thời chiến. Theo quan điểm của Frank Stenton : ” Nó có tài nguyên, và nó đã nhanh gọn tăng trưởng phẩm giá và ý thức chính trị tương thích với một TP. hà Nội vương quốc. ”
Thời Norman và trung cổ.
Theo sau chiến thắng tại Trận chiến Hastings, William I (William the Conqueror), lúc đó là Công tước Normandy, đã đăng quang như Vua của Anh trong Tu viện Westminster vừa mới xây xong vào ngày Giáng sinh năm 1066. William đã cho phép công dân Luân Đôn các đặc quyền, trong khi xây dựng một lâu đài ở góc đông nam của thành phố để kiểm soát họ. Lâu đài này được mở rộng ra bởi các vua sau đó và bây giờ được biết đến như là Tháp Luân Đôn, ban đầu là nơi ở của hoàng gia và sau đó là một nhà tù.
Vào năm 1097, vua William II khởi đầu việc kiến thiết xây dựng Sảnh đường Westminster, gần với tu viện có cùng tên. Sảnh đường này là cơ sở cho một Cung điện Westminster mới, nơi ở chính của hoàng cung trong suốt thời Trung Cổ. Westminster trở thành nơi thiết triều và nhà nước thao tác ( liên tục cho đến thời nay ), trong khi khu ngay cạnh bên đó, thành phố Luân Đôn, là một TT thương mại kinh doanh tăng trưởng dưới sự điều hành quản lý của một cơ quan hành chính khác, Liên hiệp Luân Đôn. Dần dần, những thành phố lân cận tăng trưởng cùng lúc và tạo ra cơ sở cho khu TT Luân Đôn tân tiến, thay thế sửa chữa cho Winchester làm Hà Nội Thủ Đô của nước Anh vào thế kỉ 12 .Vào thế kỷ thứ 12, những tổ chức triển khai của chính quyền sở tại TW, đã có cả hoàng cung hoàng gia Anh khi nó vận động và di chuyển khắp quốc gia, tăng trưởng về quy mô và sự tinh xảo và ngày càng cố định và thắt chặt ở một nơi. Đối với hầu hết những mục tiêu, đây là Westminster, mặc dầu ngân khố hoàng gia, đã được chuyển từ Winchester, đến để lưu giữ trong Tháp. Trong khi Thành phố Westminster tăng trưởng thành một Hà Nội Thủ Đô thực sự theo nghĩa cơ quan chính phủ, người hàng xóm độc lạ của nó, Thành phố Luân Đôn, vẫn là thành phố lớn nhất và TT thương mại chính của Anh, và nó tăng trưởng mạnh dưới sự quản trị độc lạ của riêng mình, hội đồng London. Năm 1100, dân số khoảng chừng 18.000 người ; đến năm 1300, nó đã tăng lên gần 100.000. Thảm họa địch bệnh Cái Chết Đen vào giữa thế kỷ 14 đã ảnh hưởng tác động áng kể đên thành phố, khi Luân Đôn mất gần một phần ba dân số. Luân Đôn là trọng tâm của cuộc nổi dậy của nông dân vào năm 1381 .Luân Đôn cũng là một TT của người Do Thái ở Anh trước khi họ bị Edward I của Anh trục xuất vào năm 1290. Bạo lực chống lại người Do Thái diễn ra vào năm 1190, sau khi có tin đồn thổi rằng Nhà vua mới đã ra lệnh thảm sát sau khi họ trình diễn tại lễ đăng quang của mình. Vào năm 1264 trong Chiến tranh Nam tước thứ hai, phiến quân của Simon de Montfort đã giết 500 người Do Thái trong khi cố gắng nỗ lực thu giữ những hồ sơ về những khoản nợ .
Thời cận đại.
Trong thời kỳ Tudor, cuộc Cải cách Kháng nghị tạo ra sự đổi khác từ từ sang đạo Tin lành, và phần đông gia tài ở Luân Đôn được chuyển từ nhà thời thánh sang chiếm hữu tư nhân, điều này đã thôi thúc thương mại và kinh doanh thương mại trong thành phố. Năm 1475, Liên minh Hanseatic đã xây dựng cơ sở thương mại chính ( kontor ) của Anh tại Luân Đôn, được gọi là Stalhof hoặc Steelyard. Nó sống sót cho đến năm 1853, khi những thành phố Hanseatic của L Cantereck, Bremen và Hamburg bán gia tài cho Đường sắt Đông Nam. Vải len đã được luân chuyển từ London thế kỷ 14-15 đến bờ biển của những vương quốc kém tăng trưởng, nơi nó được coi là không hề thiếu .Nhưng tầm với của doanh nghiệp hàng hải Anh hầu hết không lan rộng ra ra ngoài vùng biển phía tây-bắc châu Âu. Tuyến thương mại đến Ý và biển Địa Trung Hải thường đi qua Antwerp và qua dãy núi Alps ; bất kể tàu nào đi qua eo biển Gibraltar đến hoặc từ Anh đều có năng lực là người Ý hoặc Cộng hòa Ragusa. Sau khi nối lại thông thương với Hà Lan vào tháng 1 năm 1565, đã có sự bùng nổ can đảm và mạnh mẽ của hoạt động giải trí thương mại. Sàn thanh toán giao dịch Hoàng gia được xây dựng. Chủ nghĩa trọng thương tăng trưởng, và những công ty thương mại độc quyền như Công ty Đông Ấn Anh được xây dựng, với thương mại lan rộng ra sang Thế giới mới. Luân Đôn trở thành cảng chính của Biển Bắc, với những người di cư đến từ Anh và quốc tế. Dân số tăng từ ước tính 50.000 vào năm 1530 lên khoảng chừng 225.000 vào năm 1605 .Năm 1637, chính quyền sở tại Charles I đã nỗ lực cải tổ chính quyền sở tại ở khu vực Luân Đôn. Kế hoạch lôi kéo Tập đoàn Thành phố lan rộng ra quyền tài phán và quản trị so với việc lan rộng ra những khu vực xung quanh Thành phố. Lo sợ nỗ lực của Vương miện nhằm mục đích làm giảm quyền tự do của Luân Đôn, thiếu chăm sóc đến việc quản trị những khu vực bổ trợ này, hoặc lo lắng bởi những bang hội thành phố phải san sẻ quyền lực tối cao, Tổng công ty đã phủ nhận. Sau này được gọi là ” Sự khước từ vĩ đại “, quyết định hành động này phần đông liên tục lý giải cho thực trạng cơ quan chính phủ duy nhất của Thành phố .Trong Nội chiến Anh, phần nhiều người dân Luân Đôn ủng hộ sự nghiệp Nghị viện. Sau một bước tiến bắt đầu của Hoàng gia vào năm 1642, đỉnh điểm là những trận chiến của Brentford và Turnham Green, London được bao quanh bởi một bức tường vành đai phòng thủ được gọi là Đường liên lạc. Các dây chuyền sản xuất được thiết kế xây dựng bởi 20.000 người, và được hoàn thành xong trong vòng chưa đầy hai tháng. Các công sự đã thất bại trong cuộc thử nghiệm duy nhất của họ khi Quân đội mẫu mới tiến vào Luân Đôn vào năm 1647, và chúng đã được Nghị viện san bằng cùng năm .
Sau khi đánh bại Hạm đội Tây Ban Nha (Spanish Armada) vào năm 1588, sự ổn định chính trị ở Anh cho phép Luân Đôn phát triển thêm. Vào năm 1603, James VI của Scotland lên ngôi vua Anh (trở thành James I của Anh), nhìn chung là thống nhất hai quốc gia. Sự thi hành các luật chống Công giáo hà khắc đã làm ông không được ưa chuộng, và một vụ mưu sát diễn ra vào 5 tháng 11 năm 1605 – vụ Âm mưu thuốc súng nổi tiếng.
Sự đi lên của Luân Đôn tân tiến.
The Blitz và các trận bỏ bom khác bởi Luftwaffe của quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã giết hại trên 30.000 dân Luân Đôn và làm san bằng nhiều khu nhà cửa và các tòa nhà khác. Việc xây dựng lại trong những năm 1950, 1960 và 1970 được nhận thấy qua một loạt các kiểu kiến trúc khác nhau và kết quả là sự thiếu thống nhất về kiến trúc đã được biết đến như một đặc điểm của Luân Đôn. Trong cùng khoảng thời gian đó, nhiều cuộc di dân lớn, chủ yếu là từ các nước thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh, đã thay đổi cấu trúc dân số của thành phố. Trong năm 1965 những biên giới hành chính của Luân Đôn đã được mở rộng để tính đến sự phát triển của các khu đô thị bên ngoài biên giới của Quận Luân Đôn. Khu vực mở rộng này được gọi là Đại Luân Đôn và được quản lý bởi Hội đồng Đại Luân Đôn.
Chủ yếu mở màn từ giữa những năm 1960, Luân Đôn trở thành một TT văn hóa truyền thống giới trẻ trên toàn quốc tế, được minh họa bởi văn hóa truyền thống nhóm văn hóa truyền thống Luân Đôn gắn liền với Đường King, Chelsea và Phố Carnaby. Vai trò của người tạo ra khuynh hướng đã được hồi sinh trong thời kỳ punk rock. Năm 1965, ranh giới chính trị của Luân Đôn được lan rộng ra để tính đến sự tăng trưởng của khu vực đô thị và một Hội đồng Đại Luân Đôn mới được xây dựng. Trong xung đột vũ trang ở Bắc Ireland, Luân Đôn đã bị IRA trong thời điểm tạm thời tiến công ném bom trong hai thập kỷ, khởi đầu bằng vụ đánh bom Bailey cũ năm 1973. Sự bất bình đẳng về chủng tộc được nhấn mạnh vấn đề bởi cuộc bạo loạn Brixton năm 1981 .Một sự vực dậy về kinh tế tài chính từ thập niên 1980 trở đi đã tái thiết lập vị trí của Luân Đôn như một TT thương mại điển hình nổi bật. Tuy nhiên, vì là nơi của nhà nước và là thành phố quan trọng nhất trong vương quốc, nơi đây là một tiềm năng tiếp tục của khủng bố. Các tay đánh bom thuộc tổ chức triển khai IRA tìm cách áp lực đè nén lên chính phủ nước nhà vào việc đàm phán về việc Bắc Ireland, tiếp tục quấy phá hoạt động giải trí của thành phố với những lời rình rập đe dọa đánh bom – một số ít được thi hành – cho đến đồng ý chấp thuận ngừng bắn của họ năm 1997. Gần đây nhất, một vụ đánh bom có tổ chức triển khai vào mạng giao thông vận tải công cộng được thực thi bởi những thành phần Hồi giáo cực đoan – chỉ 24 giờ sau khi Luân Đôn được đồng ý là nơi tổ chức triển khai Thế vận hội mùa hè năm 2012 .Trong năm 2008, tạp chí Time đã chọn Luân Đôn cùng với thành phố Thành Phố New York và Hồng Kông là ba thành phố toàn thế giới có ảnh hưởng tác động nhất trên quốc tế. Trong cuộc trưng cầu dân ý Brexit năm năm nay, hàng loạt Vương quốc Anh đã quyết định hành động rời Liên minh châu Âu, nhưng phần đông những cử tri ở Luân Đôn đã bỏ phiếu ở lại EU [ 25 ] .
Chính quyền địa phương.
Chính quyền vương quốc.
Luân Đôn là nơi ngự trị nhà nước Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, tọa lạc xung quanh hoàng cung Westminster. Nhiều cơ quan cơ quan chính phủ đặt gần Nghị viện Anh, đặc biệt quan trọng dọc theo đường Whitehall, gồm có dinh thự của Thủ tướng tại địa chỉ số 10 đường Downing Street. [ 34 ] Nghị viện Anh thường được gọi là ” Mẹ của những nghị viện ” ( mặc dầu John Bright là người vận dụng tên gọi này ở nước Anh tiên phong ) [ 35 ] chính bới nó là kiểu mẫu cho hầu hết những mạng lưới hệ thống nghị viên khác tính đến nay, và những nghị viện khác được xây dựng dựa trên những văn bản pháp lý của Nghị viện Anh .
Chính sách và tội phạm.
Chính sách tại Đại Luân Đôn, ngoại trừ Thành phố Luân Đôn, được phân phối bởi Sở Cảnh sát vùng đô thị, được Thị trưởng giám sát trải qua Văn phòng Chính trị và Tội phạm của Thị trưởng ( MOPAC ). Thành phố Luân Đôn có lực lượng công an riêng – Cảnh sát Thành phố Luân Đôn. Cảnh sát Giao thông Anh chịu nghĩa vụ và trách nhiệm cho những dịch vụ công an trên Đường sắt Quốc gia, Tàu điện ngầm Luân Đôn, Đường sắt nhẹ Docklands và những dịch vụ xe điện. Một lực lượng công an thứ tư ở Luân Đôn, Cảnh sát Bộ Quốc phòng, nói chung không tham gia vào việc trấn áp công chúng .Tỷ lệ tội phạm rất khác nhau tùy theo khu vực, từ những bộ phận có yếu tố nghiêm trọng đến những bộ phận được coi là rất bảo đảm an toàn. Ngày nay, những số liệu tội phạm được cung ứng trên toàn nước tại Cơ quan Địa phương cấp P.. Trong năm năm ngoái đã có 118 vụ giết người, tăng 25,5 % so với năm năm trước. Cảnh sát Thủ đô đã đưa ra những số liệu tội phạm cụ thể, được chia theo hạng mục ở cấp Q. và cấp phường, có sẵn trên website của họ từ năm 2000 .Tội phạm được ghi nhận đang ngày càng tăng ở Luân Đôn, đáng quan tâm là tội phạm đấm đá bạo lực và giết người bằng cách đâm và những phương tiện đi lại khác đã tăng lên. Đã có 50 vụ giết người từ đầu năm 2018 đến giữa tháng 4 năm 2018. Việc cắt giảm ngân sách cho công an ở Luân Đôn có năng lực đã góp thêm phần vào việc này, mặc dầu những yếu tố khác cũng tương quan .
Tình trạng pháp lý.
Tại Luân Đôn, Thành phố Luân Đôn và Thành phố Westminster đều được công nhận pháp lý là thành phố, trong khi đó, Thành phố Luân Đôn và những phần còn lại của Đại Luân Đôn được xem là Q. nghi lễ. [ 45 ] Các khu hiện tại của Đại Luân Đôn từng là một phần của những Q. Middlesex, Kent, Surrey, Essex và Hertfordshire, sau này đã sáp nhập lại. [ 46 ] Tình trạng pháp lý của Luân Đôn là Hà Nội Thủ Đô của nước Anh, và sau đó là Hà Nội Thủ Đô của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, nhưng điều này chưa khi nào được xác nhận chính thức theo điều lệ, lao lý hay trong bất kỳ văn bản nào. [ note 2 ]
Vị trí của Luân Đôn được hình thành thông qua hiệp định Hiến pháp. Điều này khiến cho tình trạng pháp lý của Luân Đôn trên thực tế vẫn là một phần trong Hiến pháp bất thành văn của UK. Thủ đô của nước Anh đã chuyển từ Winchester sang Luân Đôn khi Cung điện Westminster phát triển dần trong thế kỷ 12 và 13 để trở thành trụ sở cố định của cung điện hoàng gia, và sau đó trở thành thủ đô chính trị của quốc gia.[50] Gần đây, vùng Đại Luân Đôn đã được xác định thuộc khu vực của nước Anh, tuy nhiên vẫn được biết đến trong tên gọi chung là Luân Đôn.[51]
London, United Kingdom | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Biểu đồ khí hậu (giải thích) | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Luân Đôn nằm trong vùng khí hậu đại dương ôn đới, giống như phần nhiều hòn đảo Anh, thành phố ít khi tận mắt chứng kiến nền nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp. Nhiệt độ cực hạn ở Luân Đôn giao động từ 38,1 °C ( 100,6 °F ) tại Kew trong tháng 8 năm 2003 và xuống đến – 16,1 °C ( 3.0 °F ) tại Northolt trong tháng 1 năm 1962. Tuy nhiên, thông số kỹ thuật không chính thức − 24 °C ( 11 °F ) đã được báo cáo giải trình vào ngày 3 tháng 1 năm 1740 và một lần khác là – 21,1 °C ( 6,0 °F ) đã được báo cáo giải trình vào ngày 25 tháng 1 năm 1795. Ngược lại, nhiệt độ không chính thức cao nhất từng được ghi nhận ở Vương quốc Anh xảy ra ở Luân Đôn trong đợt nắng nóng năm 1808. Nhiệt độ được ghi nhận ở 105 °F ( 40,6 °C ) vào ngày 13 tháng 7. Người ta cho rằng nhiệt độ này, nếu đúng chuẩn, là một trong những nhiệt độ cao nhất của thiên niên kỷ ở Vương quốc Anh. Người ta cho rằng chỉ vài ngày trong năm 1513 và 1707 mới hoàn toàn có thể vượt mặt kỷ lục này. Kể từ khi những hồ sơ mở màn ở Luân Đôn ( lần tiên phong tại Greenwich năm 1841 ), tháng ấm nhất trong hồ sơ là tháng 7 năm 1868, với nhiệt độ trung bình là 22,5 °C ( 72,5 °F ) tại Greenwich trong khi tháng lạnh nhất là tháng 12 năm 2010, với một nhiệt độ trung bình − 6,7 °C ( 19,9 °F ) tại Northolt .Mùa hè ở Luân Đôn có thời tiết ấm cúng, nhiều lúc hoàn toàn có thể nóng với nhiệt độ cao trung bình vào tháng Bảy là 22.8 °C ( 73.0 °F ) và thấp là 14.0 °C ( 57.2 °F ). Trung bình mỗi năm, nhiệt độ hoàn toàn có thể vượt mức 25 °C ( 77 °F ) trong 31 ngày nhưng hầu hết những năm thì nhiệt độ chỉ vượt ngưỡng 30 °C ( 86 °F ) trong 4.2 ngày. Trong đợt nắng nóng ở châu Âu năm 2003, đã có 14 ngày liên tục nhiệt độ trên 30 °C ( 86,0 °F ) và 2 ngày liên tục khi nhiệt độ đạt 38 °C ( 100 °F ), dẫn đến hàng trăm trường hợp tử vong tương quan đến nắng nóng. Cũng có một đợt nóng trước đó trong 15 ngày liên tục với nhiệt độ trên 32,2 °C ( 90,0 °F ) vào năm 1976 cũng gây ra nhiều cái chết tương quan đến nắng nóng khắc nghiệt. Nhiệt độ cao nhất từng được ghi nhận tại thành phố này là 38 °C ( 100 °F ) vào năm 1911 tại nhà ga Greenwich. Hạn hán cũng hoàn toàn có thể xảy ra, nhiều lúc, là một yếu tố nghiêm trọng, đặc biệt quan trọng là vào mùa hè. Gần đây nhất là vào mùa hè 2018, khi nhiệt độ khô hơn nhiều so với điều kiện kèm theo trung bình thông dụng từ tháng 5 đến tháng 12. Tuy nhiên, kỷ lục về số ngày liên tục không có mưa là 73 ngày vào mùa xuân năm 1893. [ 52 ]Mùa đông ở Luân Đôn lạnh nhưng hiếm khi xuống dưới mức ngừng hoạt động với nhiệt đô cao ban ngày vào khoảng chừng 5 °C ( 41 °F ) – 8 °C ( 46 °F ), mùa xuân thì thoáng mát vào ban ngày và se lạnh vào buổi chiều. [ 52 ] Nhiệt độ thấp nhất từng ghi nhận là − 21.1 °C ( − 6 °F ) vào tháng 1 năm 1795. Mùa thu thời tiết thường mát và không không thay đổi do có sự đối lưu giữa luồng khí mát từ Bắc Cực và luồng khí ấm từ chí tuyến. Luân Đôn là một thành phố tương đối khô với lương mưa nhẹ khoảng chừng 583.6 millimetres hàng năm. Thành phố nhận được lượng mưa ít hơn so với Rome, Bordeaux, Lisbon, Naples, Sydney hoặc thành phố Thành Phố New York .Luân Đôn thường ít khi có tuyết, đa phần bởi nhiệt độ từ những khu vực xung quanh làm Luân Đôn ấm hơn khoảng chừng 5 °C ( 9 °F ) so với những vùng xung quanh. Tuy nhiên, những trận mưa tuyết thường diễn ra vài lần trong năm. Luân Đôn thường ít xảy ra thiên tai, nhưng một vài trận thiên tai cũng đã diễn ra, ví dụ như trận bão lớn năm 1987 .Mặc dù Luân Đôn và hòn đảo Anh có tiếng là mưa liên tục, nhưng lượng mưa trung bình 602 mm ( 23,7 in ) của Luân Đôn hàng năm thực sự khiến nó khô hơn mức trung bình toàn thế giới. Mùa đông gần như không có mưa của thành phố dẫn đến nhiều vùng khí hậu xung quanh Địa Trung Hải có lượng mưa hàng năm nhiều hơn London .Vào nửa sau thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20, Luân Đôn được biết đến là thành phố sương mù vì lượng sương mù và khói chi chít. Sau một trận sương mù năm 1952, luật đạo làm sạch không khí được trải qua năm 1962, điều này đã làm giảm đáng kể ô nhiễm thiên nhiên và môi trường trong thành phố. [ 53 ]
Dữ liệu khí hậu của Luân Đôn (Greenwich) (1981–2010) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Trung bình cao °C (°F) | 8.1 | 8.6 | 11.6 | 14.6 | 18.1 | 21.0 | 23.4 | 23.1 | 20.0 | 15.5 | 11.3 | 8.4 | 15,3 |
Trung bình thấp, °C (°F) | 3.1 | 2.7 | 4.6 | 5.9 | 8.9 | 11.8 | 13.7 | 13.8 | 11.4 | 8.8 | 5.8 | 3.4 | 7,8 |
Lượng mưa, mm (inch) | 41.6 (1.638) |
36.3 (1.429) |
40.3 (1.587) |
40.1 (1.579) |
44.9 (1.768) |
47.4 (1.866) |
34.6 (1.362) |
54.3 (2.138) |
51.0 (2.008) |
61.1 (2.406) |
57.5 (2.264) |
48.4 (1.906) |
557,4 (21,945) |
Số ngày mưa TB
( ≥ 1.0 mm ) |
11.4 | 8.5 | 9.8 | 9.0 | 9.2 | 7.4 | 6.3 | 8.1 | 8.6 | 10.9 | 10.9 | 9.5 | 109,4 |
Số giờ nắng trung bình hàng tháng | 44.7 | 65.4 | 101.7 | 148.3 | 170.9 | 171.4 | 176.7 | 186.1 | 133.9 | 105.4 | 59.6 | 45.8 | 1.410,0 |
Nguồn: Met Office[54] |
Cảnh quan thành phố.
Các khu vui chơi giải trí công viên và khu vườn.
Lịch sử tự nhiên.
Thương Hội Lịch sử Tự nhiên Luân Đôn cho rằng Luân Đôn là ” một trong những thành phố xanh nhất quốc tế ” với hơn 40 % khoảng trống xanh hoặc nước mở. Họ chỉ ra rằng 2000 loài thực vật có hoa đã được tìm thấy đang tăng trưởng ở đó và thủy triều Thames tương hỗ môi trường tự nhiên sinh sống cho 120 loài cá. Họ cũng công bố rằng hơn 60 loài chim yến ở TT Luân Đôn và đã ghi nhận 47 loài bướm, 1173 bướm đêm và hơn 270 loại nhện xung quanh Luân Đôn. Các khu vực đất ngập nước của Luân Đôn tương hỗ những quần thể chim nước quan trọng trên toàn nước. Luân Đôn có 38 khu vực chăm sóc khoa học đặc biệt quan trọng ( SSSIs ), hai khu bảo tồn vạn vật thiên nhiên vương quốc và 76 khu bảo tồn vạn vật thiên nhiên địa phương .Động vật lưỡng cư là thông dụng ở thủ đô hà nội, gồm có những con sa giông sống gần Tate Modern, và những con ếch, cóc, sa giông chân màng và những con sa giông mào phương Bắc. Mặt khác, những loài bò sát địa phương như giun chậm, thằn lằn châu Âu, rắn cỏ và rắn rết Viper, hầu hết chỉ được nhìn thấy ở Ngoại Luân Đôn .Trong số những dân cư tự nhiên khác của Luân Đôn có 10.000 con cáo đỏ, do đó hiện có 16 con cáo cho mỗi dặm vuông ( 2,6 km vuông ) của Luân Đôn. Những con cáo đô thị này táo bạo hơn đáng kể so với đồng đội họ hàng của chúng, san sẻ vỉa hè với người đi bộ và nuôi con non trong sân sau nhà của con người. Cáo thậm chí còn đã lẻn vào Tòa nhà Quốc hội, nơi một con cáo được tìm thấy đang ngủ trên tủ hồ sơ. Một con khác đột nhập vào địa thế căn cứ của Cung điện Buckingham, báo cáo giải trình đã giết chết một số ít con hồng hạc được khuyến mãi của Nữ hoàng Elizabeth II. Có thể phát hiện những con cáo ở Luân Đôn vào bất kể thời gian nào trong ngày nhưng liên tục nhất là vào đêm hôm, khi đường phố vắng vẻ hơn và đó cũng là lúc chúng ra ngoài bới rác kiếm ăn. Tuy nhiên, nói chung, cáo và người dân thành phố có vẻ như hòa hợp với nhau. Một cuộc khảo sát năm 2001 của Thương Hội Động vật có vú có trụ sở tại Luân Đôn cho thấy 80 % trong số 3.779 người được hỏi tình nguyện giữ một cuốn nhật ký về những chuyến thăm động vật hoang dã có vú trong vườn thích có cáo trong đó. Mẫu này không hề được lấy để đại diện thay mặt cho hàng loạt người Luân Đôn .Các động vật hoang dã có vú khác được tìm thấy ở Đại Luân Đôn gồm có nhím, chuột cống, chuột nhắt, thỏ, chuột chù, chuột đồng và sóc. Trong những khu vực hoang dã của Ngoại Luân Đôn, như rừng Epping, nhiều loại động vật hoang dã có vú được tìm thấy gồm có thỏ đồng, lửng, chuột đồng, chuột nước, chuột gỗ, chuột cổ vàng, chuột chù và chồn, ngoài những còn có cáo, sóc và nhím. Một con rái cá đã chết được tìm thấy tại The Highway, ở Wapping, cách Cầu Tháp Luân Đôn khoảng chừng một dặm, điều này cho thấy chúng đã mở màn vận động và di chuyển trở lại sau khi vắng mặt một trăm năm từ thành phố. Mười trong số mười tám loài dơi của Anh đã được ghi nhận trong rừng Epping : soprano, nathusius và common pipistrelles, noctule, serotine, barbastelle, daubenton’s, nâu tai dài, natterer và leisler .Trong số những cảnh tượng kỳ lạ được nhìn thấy ở Luân Đôn có một con cá voi ở sông Thames, trong khi chương trình ” Thế giới tự nhiên : Lịch sử không tự nhiên của Luân Đôn ” của Đài truyền hình BBC cho thấy những con chim bồ câu sử dụng Tàu điện ngầm Luân Đôn để đi quanh thành phố, một con hải cẩu lấy cá từ người bán cá bên ngoài chợ cá Billingsgate và những con cáo sẽ ” ngồi ” nếu được cho xúc xích .Những đàn hươu đỏ và hươu hoang cũng đi long dong tự do trong phần nhiều Công viên Richmond và Bushy. Một cuộc hủy bỏ diễn ra vào mỗi tháng 11 và tháng 2 để bảo vệ số lượng hoàn toàn có thể được duy trì. Rừng Epping cũng được biết đến với loài hươu hoang, thường hoàn toàn có thể được nhìn thấy trong đàn ở phía bắc của khu rừng. Một quần thể hươu đen hiếm gặp cũng được duy trì tại Khu bảo tồn hươu gần Theydon Bois. Loài mang sau khi trốn thoát khỏi khu vui chơi giải trí công viên hươu vào đầu thế kỷ XX, cũng được tìm thấy trong rừng. Trong khi người dân Luân Đôn đã quen với động vật hoang dã hoang dã như chim và cáo san sẻ môi trường tự nhiên sinh sống trong thành phố, thì những con hươu thành thị gần đây đã mở màn trở thành một đặc thù tiếp tục và cả đàn hươu hoang đi vào khu dân cư vào đêm hôm để tận dụng khoảng trống xanh của Luân Đôn .
London map showing the percentage distribution of selected races according to the 2011 Census
Cấu trúc tuổi và tuổi trung bình.
Năm 2018, dân số Luân Đôn theo độ tuổi được cấu trúc khác với phần còn lại của nước Anh. Luân Đôn có tỷ suất trẻ nhỏ dưới 5 tuổi cao hơn so với phần còn lại của nước Anh. Trẻ em ( dưới 14 tuổi ) chiếm 21 % ở Ngoại ô Luân Đôn và 28 % ở Nội Luân Đôn ; nhóm tuổi từ 15 đến 24 tuổi là 12 % ở cả Ngoại và Luân Đôn ; những người trong độ tuổi từ 25 đến 44 tuổi chiếm 31 % ở Ngoại ô Luân Đôn và 40 % ở Nội Luân Đôn ; độ tuổi từ 45 đến 64 tuổi lần lượt hình thành 26 đến 21 % ở Ngoại ô và Nội thành Luân Đôn ; trong khi ở Ngoại ô Luân Đôn, người từ 65 tuổi trở lên là 13 %, thì ở Nội Luân Đôn chỉ là 9 % .Độ tuổi trung bình của Luân Đôn năm 2017 là 36,5 tuổi
Các nhóm dân tộc bản địa.
Các nhóm dân tộc bản địa theo thống kê năm 2011 [ 58 ]
Người Anh da trắng (44.9%)
Người da trắng khác (14.9%)
Người Anh gốc Á (18.4%)
Người Anh gốc Phi (13.3%)
Người Anh gốc Ả Rập (1.3%)
Lai tạp (5%)
Khác (2.2%)
Theo Văn phòng Thống kê Quốc gia, dựa trên ước tính của Tổng tìm hiểu dân số năm 2011, 59,8 % trong số 8.173.941 dân cư của Luân Đôn là người da trắng, với 44,9 % người Anh da trắng, 2,2 % người Ailen trắng, 0,1 % người gypsy / khách du lịch Ailen và 12,1 % được phân loại là người da trắng ở một số ít nước khác .20,9 % người Luân Đôn là người gốc Á và lai gốc Á. 19,7 Xác Suất là người gốc Á trọn vẹn, với những người thuộc di sản châu Á hỗn hợp gồm có 1,2 dân số. Người Ấn Độ chiếm 6,6 Xác Suất dân số, tiếp theo là người Pakistan và Bangladesh ở mức 2,7 Phần Trăm mỗi người. Người Trung Quốc chiếm 1,5 % dân số, với người Ả Rập chiếm 1,3 %. Hơn 4,9 Xác Suất được phân loại là ” Châu Á Thái Bình Dương khác ” .15,6 % dân số Luân Đôn là người gốc Phi và người da đen hỗn hợp. 13,3 Phần Trăm là người gốc Phi trọn vẹn, với những người gốc Phi hỗn hợp gồm có 2,3 Tỷ Lệ. Người châu Phi da đen chiếm 7,0 Phần Trăm dân số Luân Đôn, với 4,2 Phần Trăm là người Caribbe đen và 2,1 Xác Suất là ” Người da đen khác “. 5,0 Phần Trăm là chủng tộc hỗn hợp .Trên khắp Luân Đôn, trẻ nhỏ da đen và châu Á đông hơn trẻ nhỏ Anh trắng khoảng chừng sáu đến bốn ở những trường công lập. Hoàn toàn theo tìm hiểu dân số năm 2011, trong số 1.624.768 dân số ở Luân Đôn từ 0 đến 15 tuổi, 46,4 % là người da trắng, 19,8 % là người châu Á, 19 % là người da đen, 10,8 % là người hỗn hợp và 4 % đại diện thay mặt cho một nhóm dân tộc bản địa khác. Vào tháng 1 năm 2005, một cuộc khảo sát về sự phong phú sắc tộc và tôn giáo của Luân Đôn đã công bố rằng có hơn 300 ngôn từ được sử dụng ở Luân Đôn và hơn 50 hội đồng không phải là người địa phương với dân số hơn 10.000 người. Số liệu từ Văn phòng Thống kê Quốc gia cho thấy, trong năm 2010, dân số sinh ra ở quốc tế của Luân Đôn là 2.650.000 ( 33 % ), tăng so với 1.630.000 vào năm 1997 .Cuộc tìm hiểu dân số năm 2011 cho thấy 36,7 % dân số Đại Luân Đôn được sinh ra bên ngoài Vương quốc Anh. Một bộ phận dân số gốc Đức có năng lực là công dân Anh sinh ra từ cha mẹ ship hàng trong Lực lượng Vũ trang Anh tại Đức. Ước tính do Văn phòng Thống kê Quốc gia đưa ra cho thấy năm nhóm sinh ra ở quốc tế lớn nhất sống ở Luân Đôn trong quy trình tiến độ từ tháng 7 năm 2009 đến tháng 6 năm 2010 là những người sinh ra ở Ấn Độ, Ba Lan, Cộng hòa Ireland, Bangladesh và Nigeria .
Tổng sản phẩm khu vực của Luân Đôn năm năm nay là 408 tỷ bảng Anh, khoảng chừng một phần tư [ [ Kinh tế Anh | GDP của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland [ 62 ] ( hay 600 tỷ USD trong năm năm ngoái ) ; còn nền kinh tế tài chính của vùng đô thị Luân Đôn — lớn nhất trong những vùng đô thị tại Châu Âu — tạo ra khoảng chừng 30 % GDP của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ( hay 669 tỷ USD năm 2005 ). [ 63 ] Luân Đôn là TT kinh tế tài chính tiêu biểu vượt trội trên quốc tế và là thành phố cạnh tranh đối đầu cùng Thành Phố New York vai trò là khu vực kinh tế tài chính quốc tế quan trọng nhất. [ 64 ] [ 65 ]Luân Đôn có năm khu kinh doanh thương mại chính : Thành phố, Westminster, Bến Canary, Camden và Islington và Lambeth và Southwark. Một cách để có được sáng tạo độc đáo về tầm quan trọng tương đối của họ là xem xét số lượng khoảng trống văn phòng tương đối : Greater London có 27 triệu mét vuông văn phòng vào năm 2001, và Thành phố chứa nhiều khoảng trống nhất, với 8 triệu mét vuông văn phòng. Luân Đôn có 1 số ít giá bất động sản cao nhất quốc tế. London là thị trường văn phòng đắt nhất quốc tế trong ba năm qua theo báo cáo giải trình của tạp chí bất động sản quốc tế ( năm ngoái ). Tính đến năm năm ngoái, gia tài dân cư ở London trị giá 2,2 nghìn tỷ đô la – tương tự với GDP hàng năm của Brazil. Thành phố có giá bất động sản cao nhất của bất kể thành phố châu Âu nào theo Văn phòng thống kê vương quốc và Văn phòng thống kê châu Âu. Trung bình giá mỗi mét vuông ở TT Luân Đôn là € 24,252 ( tháng 4 năm năm trước ). Giá này cao hơn giá bất động sản ở những thành phố thủ đô hà nội G8 khác của châu Âu ; Berlin € 3,306, Rome € 6,188 và Paris € 11,229 .Hơn 50% trong số 100 công ty CP số 1 của UK và hơn 100 trong số 500 công ty lớn nhất Châu Âu đóng trụ sở chính tại TT Luân Đôn. Hơn 70 % công ty số 1 UK đặt tại vành đai đô thị Luân Đôn, và 75 % trong 500 công ty dồi dào kinh tế tài chính nhất có văn phòng ở Luân Đôn. [ 66 ] Thành phố Luân Đôn là trụ sở của Ngân hàng Anh, Sở thanh toán giao dịch sàn chứng khoán Luân Đôn và là thị trường của công ty môi giới bảo hiểm Lloyds ( JLT ). Những công ty tiếp thị quảng cáo tập trung chuyên sâu tại Luân Đôn với những dịch vụ chuyên nghiệp. Ngành công nghiệp phân phối phương tiện đi lại tiếp thị quảng cáo là ngành có tính cạnh tranh đối đầu thứ hai tại Luân Đôn. [ 67 ] Đài truyền hình BBC là đài quan trọng nhất, nhưng những đài truyền hình khác cũng có trụ sở trên khắp thành phố. Nhiều tờ báo vương quốc đều được hiệu chỉnh tại Luân Đôn. Cảng Luân Đôn là cảng lớn thứ hai ở UK, chuyên chở 53 triệu tấn sản phẩm & hàng hóa mỗi năm. [ 68 ]
Ngành công nghiệp lớn nhất của Luân Đôn là kinh tế tài chính. Thu nhập từ xuất khẩu kinh tế tài chính của thành phố đã góp phần không nhỏ cho cán cân giao dịch thanh toán của nước Anh. Cho đến thời gian giữa năm 2007, có khoảng chừng 325.000 người thao tác trong ngành dịch vụ kinh tế tài chính ở Luân Đôn. Luân Đôn có hơn 480 ngân hàng nhà nước quốc tế, nhiều hơn bất kể thành phố nào trên quốc tế. Đây cũng là TT thanh toán giao dịch tiền tệ lớn nhất quốc tế, chiếm khoảng chừng 37 % trong tổng khối lượng trung bình 5,1 nghìn tỷ đô la hàng ngày, theo BIS. Hơn 85 % ( 3,2 triệu ) dân số thao tác tại những khu công trình lớn hơn ở Luân Đôn trong những ngành dịch vụ. Do vai trò toàn thế giới điển hình nổi bật của thành phố, kinh tế tài chính Luân Đôn đã bị tác động ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng cục bộ kinh tế tài chính toàn thế giới 2008 – 2009. Ước tính của năm 2008 cho biết có khoảng chừng 70.000 việc làm trong ngành kinh tế tài chính bị cắt giảm trong vòng một năm tại Thành phố Luân Đôn [ 69 ]. Tuy nhiên, đến năm 2010, thành phố đã hồi sinh ; đưa ra những quyền lực tối cao pháp lý mới, thực thi lấy lại chỗ đã mất và tái lập sự thống trị kinh tế tài chính của Luân Đôn. Cùng với trụ sở dịch vụ chuyên nghiệp, Thành phố Luân Đôn là nơi đặt trụ sở của Ngân hàng Anh, Sở thanh toán giao dịch sàn chứng khoán Luân Đôn và thị trường bảo hiểm Lloyd’s of London .Ngành kinh tế tài chính của Luân Đôn có trụ sở tại Thành phố Luân Đôn và Canary Wharf, hai khu kinh doanh thương mại chính ở Luân Đôn. Luân Đôn là một trong những TT kinh tế tài chính nổi tiếng trên quốc tế là khu vực quan trọng nhất so với kinh tế tài chính quốc tế. London tiếp quản như một TT kinh tế tài chính lớn ngay sau năm 1795 khi Cộng hòa Hà Lan sụp đổ trước quân đội Napoléon. Đối với nhiều nhân viên cấp dưới ngân hàng nhà nước được xây dựng tại Amsterdam ( ví dụ : Hope, Baring ), đây chỉ là thời hạn để chuyển đến London. Giới tinh hoa kinh tế tài chính Luân Đôn được củng cố bởi một hội đồng Do Thái can đảm và mạnh mẽ từ khắp châu Âu có năng lực làm chủ những công cụ kinh tế tài chính phức tạp nhất thời bấy giờ. Sự tập trung chuyên sâu năng lực độc lạ này đã đẩy nhanh quy trình quy đổi từ Cách mạng thương mại sang Cách mạng công nghiệp. Vào cuối thế kỷ 19, Anh là nước giàu nhất trong toàn bộ những vương quốc và Luân Đôn là một TT kinh tế tài chính số 1. Tuy nhiên, tính đến năm năm nay, London đứng đầu bảng xếp hạng quốc tế về Chỉ số Trung tâm Tài chính Toàn cầu ( GFCI ), và xếp thứ hai trong A.T. Chỉ số thành phố toàn thế giới năm 2018 của Kearney .Hơn 50% trong số 100 công ty niêm yết số 1 của Vương quốc Anh ( FTSE 100 ) và hơn 100 trong số 500 công ty lớn nhất châu Âu có trụ sở tại TT Luân Đôn. Hơn 70 % FTSE 100 nằm trong khu vực đô thị của London và 75 % những công ty trong list Fortune 500 có văn phòng tại London .
Du lịch là một trong những ngành công nghiệp đa phần của Luân Đôn, sử dụng tương tự với 350.000 nhân viên cấp dưới toàn thời hạn tại Luân Đôn vào năm 2003. [ 70 ] Trong khi đó, tiêu tốn hàng năm của khách du lịch là khoảng chừng 15 tỉ bảng Anh. [ 71 ] Luân Đôn lôi cuốn hơn 15 triệu hành khách quốc tế mỗi năm và trở thành thành phố có lượng hành khách nhiều nhất quốc tế. Mỗi năm Luân Đôn lôi cuốn 27 triệu lượt khách lưu trú qua đêm. [ 72 ] Cảng Luân Đôn là cảng lớn thứ hai ở UK, luân chuyển 53 triệu tấn sản phẩm & hàng hóa mỗi năm .Mười điểm thăm quan được ghé thăm nhiều nhất tại Luân Đôn trong năm 2009 là : [ 73 ]
Truyền thông và công nghệ tiên tiến.
Các công ty truyền thông online tập trung chuyên sâu ở Luân Đôn và ngành phân phối truyền thông online là nghành nghề dịch vụ cạnh tranh đối đầu thứ hai của Luân Đôn. BBC là một nhà tuyển dụng quan trọng, trong khi những đài truyền hình khác cũng có trụ sở xung quanh Thành phố. Nhiều tờ báo vương quốc được chỉnh sửa ở London. Luân Đôn là một TT kinh doanh bán lẻ lớn và năm 2010 có doanh thu kinh doanh bán lẻ phi thực phẩm cao nhất của bất kể thành phố nào trên quốc tế, với tổng tiêu tốn khoảng chừng 64,2 tỷ bảng Anh. Cảng Luân Đôn là cảng lớn thứ hai ở Vương quốc Anh, giải quyết và xử lý 45 triệu tấn sản phẩm & hàng hóa mỗi năm .Một số lượng lớn những công ty công nghệ tiên tiến có trụ sở tại London đáng quan tâm là tại Thành phố Công nghệ Đông London, còn được gọi là Vòng xoay Silicon. Vào tháng 4 năm năm trước, thành phố là một trong những người tiên phong nhận được GeoTLD. Vào tháng 2 năm năm trước, Luân Đôn đã được Tạp chí FDi xếp hạng là Thành phố Châu Âu của tương lai trong list năm trước / 15 .Các mạng lưới phân phối điện và khí quản lý và quản lý và vận hành những tòa tháp, dây cáp và mạng lưới hệ thống áp lực đè nén phân phối nguồn năng lượng cho người tiêu dùng trên toàn thành phố được quản trị bởi National Grid plc, SGN và UK Power Networks
Giao thông vận tải đường bộ là một trong bốn nghành nghề dịch vụ chính trong chủ trương quản trị của thị trưởng Luân Đôn. [ 74 ] Tuy nhiên, việc trấn áp kinh tế tài chính của ông không lan rộng ra thêm được mạng lưới đường sắt từ những vùng xa hơn đến Luân Đôn. Năm 2007, ông nhận nghĩa vụ và trách nhiệm về 1 số ít tuyến địa phương, mà lúc bấy giờ chính là mạng lưới đường tàu trên mặt đất ở Luân Đôn, góp thêm phần chuyên chở hành khách cùng mạng lưới hệ thống tàu điện ngầm, xe điện và xe buýt ở Luân Đôn. Mạng lưới giao thông vận tải công cộng được quản trị bởi Cục vận tải đường bộ Luân Đôn ( TfL ) cùng với ngân sách được nhìn nhận là thuộc dạng đắt nhất quốc tế. Đi xe đạp điện là một cách thông dụng để vòng quanh Luân Đôn. Chiến dịch đi xe đạp điện ở Luân Đôn được phát động qua những cuộc hoạt động hiên chạy dọc nhằm mục đích đạt được tác dụng tốt hơn. [ 75 ]Vào năm 1933, khi Bộ giao thông vận tải vận tải đường bộ hành khách Luân Đôn ( còn gọi là Bộ giao thông vận tải vận tải đường bộ Luân Đôn ) được xây dựng, mạng lưới hệ thống mạng lưới tàu điện ngầm – cũng giống như mạng lưới xe điện và xe buýt – đã trở thành một phần của mạng lưới hệ thống vận tải đường bộ tích hợp. Bộ giao thông vận tải vận tải đường bộ Luân Đôn ( TfL ) hiện là hội đồng pháp lý quản trị hầu hết những góc nhìn của mạng lưới hệ thống giao thông vận tải ở Đại Luân Đôn và được điều hành quản lý bởi hội đồng và ủy viên hội đồng do thị trưởng Luân Đôn chỉ định. [ 76 ]
Tàu điện ngầm và DLR.
Hệ thống tàu điện ngầm Luân Đôn (London Underground — hiện nay thường được gọi là Tube), mặc dù ban đầu chỉ thiết kế các tuyến sâu (phân biệt với các tuyến gần bề mặt), là hệ thống giao thông đường sắt bằng điện lâu đời nhất[77] và dài thứ hai[78] trên thế giới, có niên đại từ năm 1863. Hệ thống này phục vụ 270 trạm và đã được thành lập bởi một số công ty tư nhân, trong đó có tuyến tàu điện ngầm đầu tiên trên thế giới là tuyến đường sắt Thành phố và Nam Luân Đôn.[79]
Mạng lưới tàu điện ngầm luân chuyển hơn ba triệu lượt khách mỗi ngày, hơn 1 tỉ lượt mỗi năm. [ 80 ] Một kế hoạch góp vốn đầu tư đang cố gắng nỗ lực để xử lý yếu tố ùn tắc và không thay đổi với kinh phí đầu tư cải tổ để chuẩn bị sẵn sàng cho Thế vận hội ngày hè 2012 lên đến 7 tỷ £ ( 10 tỷ € ). [ 81 ] Luân Đôn được nhìn nhận là thành phố có mạng lưới hệ thống giao thông vận tải công cộng tốt nhất. [ 82 ] Tuyến đường sắt nhẹ Docklands khai trương mở bán vào năm 1987 là mạng lưới hệ thống tàu điện ngầm đa địa phương thứ hai sử dụng những chiếc xe điện nhỏ hơn và nhẹ hơn, hoạt động giải trí đa phần ở Docklands, Lewisham và Greenwich .
Đường sắt đô thị.
Ngoài ra còn có mạng lưới hệ thống đường tàu đô thị bao quát trên mặt đất, đặc biệt quan trọng là ở Nam Luân Đôn, nơi có ít những tuyến tàu điện ngầm hơn. Nhà ga Waterloo là nhà ga sinh động nhất nước Anh, mỗi năm có hơn hơn 184 triệu người sử dụng phức tạp trạm trao đổi ở đây ( gồm có nhà ga Waterloo Đông ). Các nhà ga cung ứng những tuyến đường ship hàng ở khu vực Đông Nam và Tây Nam Luân Đôn, và một phần ở khu vực Đông Nam và Tây Nam nước Anh. [ 83 ] [ 84 ] Hầu hết những tuyến đường sắt kết thúc xung quanh TT Luân Đôn tại 18 trạm đầu cuối, trừ tuyến Thameslink nối Bedford ở phía bắc và Brighton ở phía nam trải qua trường bay Luton và Gatwick. [ 85 ]Với nhu yếu cần thêm sức chứa đường tàu ở Luân Đôn, Crossrail dự kiến sẽ Open vào năm 2020 / 21. Đây sẽ là một tuyến đường sắt mới chạy từ đông sang tây qua Luân Đôn vào những Quận Home với một nhánh đến Sân bay Heathrow. Đây là dự án Bất Động Sản thiết kế xây dựng lớn nhất châu Âu, với ngân sách dự kiến là 15 tỷ bảng .
Liên thành phố và quốc tế.
Vận chuyển sản phẩm & hàng hóa.
Mặc dù mức độ luân chuyển sản phẩm & hàng hóa đường tàu thấp hơn nhiều so với những dịch vụ đường tàu khác, một lượng lớn sản phẩm & hàng hóa cũng được luân chuyển vào và ra khỏi Luân Đôn bằng đường tàu ; đa phần là vật tư kiến thiết xây dựng và chất thải chôn lấp. Là một TT chính của mạng lưới đường tàu của Anh, những tuyến đường của Luân Đôn cũng luân chuyển một lượng lớn sản phẩm & hàng hóa cho những khu vực khác, ví dụ điển hình như luân chuyển sản phẩm & hàng hóa container từ những Đường hầm Kênh và Kênh Anh và chất thải hạt nhân để tái giải quyết và xử lý tại Sellafield .
Xe buýt và xe điện.
Cáp treo tiên phong và duy nhất của Luân Đôn, được gọi là Emirates Air Line, khai trương mở bán vào tháng 6 năm 2012. Băng qua sông Thames, nối Bán đảo Greenwich và bến cảng Hoàng gia ở phía đông thành phố, cáp treo được tích hợp với mạng lưới hệ thống bán vé Oyster Card của London, mặc dầu giá vé đặc biệt quan trọng được tính. Chi phí kiến thiết xây dựng 60 triệu bảng, nó chở hơn 3.500 hành khách mỗi ngày, mặc dầu điều này thấp hơn rất nhiều so với hiệu suất của nó. Tương tự như kế hoạch thuê xe đạp điện Santander Ciking, cáp treo được hỗ trợ vốn trong hợp đồng 10 năm của hãng hàng không Emirates .
Cảng và sông.
Từ chỗ là cảng lớn nhất quốc tế, Cảng Luân Đôn hiện chỉ là cảng lớn thứ hai ở Anh, giải quyết và xử lý 45 triệu tấn sản phẩm & hàng hóa mỗi năm. Hầu hết những thứ này thực sự đi qua Cảng Tilbury, bên ngoài ranh giới của vùng đô thị Luân Đôn .Luân Đôn có những dịch vụ thuyền sông liên tục trên sông Thames được gọi là Thames Clippers. Chúng chạy tới 20 phút một lần giữa Bến tàu Kè và Bến tàu Bắc Greenwich. Phà Woolwich, với 2,5 triệu hành khách mỗi năm, là dịch vụ liên tục nối tiếp giữa Đường Bắc và Nam Thông tư. Các nhà khai thác khác quản lý cả dịch vụ đi lại và tàu du lịch ở Luân Đôn .
Giáo dục đào tạo ĐH.
Giáo dục đào tạo tiểu học và trung học.
Phần lớn những trường tiểu học và trung học và những trường cao đẳng giáo dục ở Luân Đôn được trấn áp bởi những Q. của Luân Đôn hoặc do nhà nước hỗ trợ vốn ; những ví dụ số 1 gồm có Ashbourne College, Bethnal Green Academy, Brampton Manor Academy, City and Islington College, City of Westminster College, David Game College, Ealing, Hammersmith and West London College, Leyton Sixth Form College, London Academy of Excellence, Tower Hamlets College, và Trung tâm mẫu thứ sáu Newham Collegiate. Ngoài ra còn có một số ít trường tư thục và cao đẳng ở Luân Đôn, 1 số ít trường cũ và nổi tiếng, ví dụ điển hình như Trường Thành phố Luân Đôn, Trường Harrow, Trường St Paul, Trường Aske của Haberdashers, Trường Đại học, Trường John Lyon, Trường Highgate và Trường Westminster .
Thư giãn và vui chơi.
Văn học, phim ảnh và truyền hình.
Các nhà văn gần gũi với thành phố là Samuel Pepys, người đã để lại những ghi chép rất có giá trị về vụ Đại hỏa hoạn ở Luân Đôn, Charles Dickens, nhà văn vĩ đại của nước Anh, và Virginia Woolf, được coi là một trong những nhà văn hiện đại hàng đầu của thế kỷ 20. William Shakespeare đã dành một phần lớn cuộc sống của mình sống và làm việc tại Luân Đôn; Ben Jonson cũng đã từng có nhiều năm sinh sống tại Luân Đôn, và một số tác phẩm của ông – đáng chú ý nhất là vở kịch Alchemist – được đặt bối cảnh tại thành phố. Những mô tả quan trọng sau này về Luân Đôn trong những năm thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 là những tiểu thuyết của Dickens, và những câu chuyện về thám tử Sherlock Holmes của Arthur Conan Doyle. Các nhà văn hiện đại bị ảnh hưởng bởi thành phố bao gồm Peter Ackroyd, tác giả của một cuốn tiểu sử của Luân Đôn, và Iain Sinclair, người viết trong thể loại tâm lý học.
Bảo tàng và triển lãm thẩm mỹ và nghệ thuật.
Luân Đôn là nơi có nhiều bảo tàng, phòng triển lãm và các tổ chức nghệ thuật khác, phần lớn trong số đó miễn phí vào cửa và là điểm tham quan chủ yếu thu hút khách du lịch, đồng thời đóng vai trò là nơi nghiên cứu. Công trình ra đời đầu tiên trong số này là Bảo tàng Anh tại Bloomsbury vào năm 1753. Ban đầu là nơi lưu trữ các cổ vật, mẫu vật lịch sử tự nhiên và thư viện quốc gia, ngày nay bảo tàng hiện có 7.000.000 cổ vật từ khắp nơi trên thế giới. Năm 1824, Thư viện Quốc gia (National Gallery) được thành lập và trở thành nơi lưu trữ tất cả các bức họa phương Tây của nước Anh. Thư viện quốc gia hiện nay đang chiếm một vị trí nổi bật tại Quảng trường Trafalgar. Trong nửa cuối thế kỷ 21, vùng Nam Kensington phát triển thành “Albertopolis” (khu trung tâm Nam Kenshington hiện nay), một vùng đất của khoa học và văn hóa. Ba bảo tàng quốc gia lớn đều tọa lạc ở đó: Bảo tàng Victoria và Albert (về mỹ thuật ứng dụng), Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên và Bảo tàng Khoa học. Nhà triển lãm quốc gia về nghệ thuật Anh nằm tại Tate Britain, ban đầu được thành lập như là một chi nhánh của Thư viện Quốc gia vào năm 1897, được biết đến trước đây với tên gọi Nhà triển lãm Tate, cũng đã trở thành một trung tâm lớn về nghệ thuật hiện đại. Trong năm 2000, những tác phẩm trong đó đã được chuyển đến Tate Modern, một nhà triển lãm mới mà trước đây từng là trạm điện Bankside.
Luân Đôn là một trong những thủ đô hà nội lớn về âm nhạc cổ xưa và TP. hà Nội của âm nhạc thông dụng trên quốc tế, là nhà của những công ty âm nhạc lớn như EMI và vô số ban nhạc, nhạc sĩ cùng những chuyên viên trong ngành công nghiệp này. Thành phố còn là nhà của những dàn nhạc và thính phòng giao hưởng lớn, như TT Nghệ thuật Barbican ( nơi màn biểu diễn chính của dàn nhạc Giao hưởng London ), nhà hát Cadogan ( Dàn nhạc Giao hưởng Hoàng gia Anh ) và thính phòng Hoàng gia Albert ( nơi diễn ra sự kiện âm nhạc The Đài truyền hình BBC Proms ). [ 111 ] Hai nhà hát opera chính của Luân Đôn là nhà hát Opera Hoàng gia và nhà hát Coliseum Theatre. [ 111 ] Cây đàn ống dài nhất UK hoàn toàn có thể tìm thấy tại thính phòng Hoàng gia Albert. Những nhạc cụ đáng chú ý quan tâm khác cũng được tìm thấy tại những giáo đường và những nhà thời thánh lớn. Có vài trường âm nhạc nằm trong thành phố như Nhạc viện Hoàng gia, cao đẳng âm nhạc Hoàng gia, trường nhạc kịch Guildhall và cao đẳng âm nhạc Trinity .
Luân Đôn cũng có bốn đội bóng bầu dục tại Giải ngoại hạng Aviva (London Ailen, Saracens, Wasps và Harlequins), mặc dù chỉ có đội Harlequins chơi tại Luân Đôn (cả ba đội khác chơi bên ngoài Đại Luân Đôn, dù đội Saracens vẫn chơi trong M25).[124] Các đội bóng bầu dục chuyên nghiệp khác trong thành phố gồm London Welsh, câu lạc bộ lớn thứ hai của giải RFU Championship, là đội chủ nhà của thành phố. Thành phố có các câu lạc bộ bóng bầu dục rất truyền thống khác, nổi tiếng nhất là London Scotland, Richmond FC, Rosslyn Park FC và Blackheath F.C. Hiện nay có hai câu lạc bộ bóng bầu dục chuyên nghiệp ở Luân Đôn, gồm Harlequins Rugby chơi trong Giải siêu cúp châu Âu (‘European Super League) tại sân vận động The Stoop và Giải vô địch bóng bầu dục quốc gia 1, đối đầu với câu lạc bộ London Skolars (tại Wood Green, thành phố Haringey của Luân Đôn).
Luân Đôn có hai sân Test cricket, gồm có Lord ( quê nhà của Middlesex C.C.C. ) ở St John’s Wood và Oval ( nhà của Surrey C.C.C. ) ở Kennington. Sân Lord đã tổ chức triển khai bốn trận chung kết của World Cup Cricket và được gọi là Nhà của Cricket. Các sự kiện quan trọng hàng năm khác là hàng loạt sự tham gia của những thí sinh cho giải London Marathon, trong đó khoảng chừng 35.000 vận động viên nỗ lực một khóa học 26,2 dặm ( 42,2 km ) xung quanh thành phố, và Đại hội Đại học đua thuyền trên sông Thames từ Putney đến Mortlake .
Thành phố kết nghĩa.
Có 46 thành phố trên 6 lục địa kết nghĩa với Luân Đôn. [ 125 ] Cùng với những khu vực kết nghĩa với London, những Q. của Luân Đôn cũng có quan hệ kết nghĩa với những thành phố trên quốc tế. Dưới đây là list những thành phố kết nghĩa với chính quyền sở tại Đại Luân Đôn :
- ^ See also : Independent city # National capitals
- ^ Collins English Dictionary definition of ‘the seat of government’,[47] London is not the capital of England, as England does not have its own government. According to the Oxford English Reference Dictionary definition of ‘the most important town'[48] and many other authorities.[49]According to thedefinition of ‘ the seat of government ‘, London is not the capital of England, as England does not have its own government. According to thedefinition of ‘ the most important town’and many other authorities .
Liên kết ngoài.
Source: http://139.180.218.5
Category: Thuật ngữ đời thường