Phong trào Thánh khiết qui tụ các tín hữu Cơ Đốc là những người xác tín và rao giảng đức tin cho rằng “bản chất xác thịt” của con người có thể được thanh tẩy qua đức tin và bởi quyền năng của Chúa Thánh Linh nếu người ấy tin nhận Chúa Giê-xu để được tha thứ tội lỗi.
Theo quan điểm của Phong trào Thánh khiết, những quyền lợi đến từ đời sống Thánh khiết gồm có ” linh quyền ” và năng lực duy trì sự thanh sạch của tấm lòng ( tư tưởng và hành vi không còn bị ô uế bởi tội lỗi ). Học thuyết này được biết đến trong vòng những giáo hội thuộc trào lưu Thánh khiết như thể ” sự Thánh hóa tổng lực “, mặc dầu thuật ngữ ” sự toàn hảo Cơ Đốc ” được sử dụng thoáng rộng hơn .
Phong trào Thánh khiết khởi phát từ :
Phong trào Thánh khiết cổ xuý cho một Cơ Đốc giáo tập chú vào trải nghiệm cá nhân, sống đạo và sự thay đổi triệt để trong nếp sống. Ba khái niệm trọng tâm của Phong trào Thánh khiết là:
Bạn đang đọc: Phong trào Thánh khiết – Wikipedia tiếng Việt
- Trải nghiệm sự tái sinh, bởi ân điển và qua đức tin.
- Tín hữu cần được Thánh hóa, cũng bởi ân điển và qua đức tin.
- Sự xác chứng về sự cứu rỗi bởi lời chứng của Chúa Thánh Linh.
Khái niệm đầu là giáo lý trọng điểm của toàn thể trào lưu Tin Lành thuộc hội đồng Kháng Cách. Hai khái niệm còn lại là đặc trưng của Phong trào Thánh khiết .Tín hữu thuộc Phong trào Thánh khiết nhận thức về khái niệm đầu ( sự tái sinh tâm linh ) với sự chú trọng vào góc nhìn xúc cảm và thưởng thức cá thể cũng như tính huyền nhiệm nhiều hơn những trào lưu khác thuộc Cơ Đốc giáo .Khái niệm thứ hai thường được xem là một thưởng thức cá thể, một người sau khi được tái sinh, hết lòng cung hiến cho Thiên Chúa, sẽ nhận lãnh năng lượng cho một đời sống Thánh khiết. Một vài nhóm Thánh khiết cho rằng con người hoàn toàn có thể sống mà không phạm tội, trong khi nhiều người khác tin rằng sau khi nhận lãnh thưởng thức Thánh hoá, mỗi ngày họ trở nên Thánh khiết hơn. Kinh nghiệm này thường được gọi là ” sự thăm viếng thứ nhì ” hoặc ” phước hạnh thứ nhì “, hoặc là ” được đầy dẫy Chúa Thánh Linh ” .Khái niệm thứ ba miêu tả sự phân biệt tự nhiên đến với những người đã nhận lãnh thưởng thức tái sinh, gọi là ” sự xác chứng về sự cứu rỗi ” .
Một sự chăm sóc đặc biệt quan trọng về đức hạnh Thánh khiết của Cơ Đốc giáo được làm sống lại trong vòng những tín hữu Giám Lý trong thế kỷ 19. Họ tìm thấy lại giáo lý này trong lời giảng của John Wesley về Sự toàn hảo Cơ Đốc .
Năm 1836 tại thành phố New York, một tín hữu Giám Lý, Sarah Worral Lankford, khởi xướng những buổi nhóm vào thứ Ba nhằm cổ xuý cho sự Thánh khiết. Năm 1837, Timothy Merrit thành lập một tạp chí gọi là Đường dẫn đến sự Toàn hảo Cơ Đốc với mục đích truyền bá và cổ xuý tư tưởng của Wesley, cho rằng tín hữu Cơ Đốc có thể sống mà không phạm phải những tội trọng.
Năm 1837, Phoebe Palmer, em gái của Sarah Lankford, trải nghiệm điều bà gọi là “sự Thánh hoá toàn diện”. Palmer bắt đầu hướng dẫn các buổi nhóm họp vào thứ Ba cổ xuý cho sự Thánh khiết. Ban đầu chỉ có phụ nữ đến dự, nhưng dần dần các giám mục Giám Lý và các chức sắc cũng đến. Palmer trở nên biên tập viên cho tạp chí của Merritt, nay được gọi là Đường dẫn đến Thánh khiết. Năm 1859, bà xuất bản tác phẩm The Promise of the Father (Lời hứa của Cha), tranh luận theo hướng ủng hộ phụ nữ được tham gia các chức vụ trong hội Thánh. Quyển sách sau này có ảnh hưởng trên Catherine Booth, người đồng sáng lập Cứu Thế Quân.
Tại những buổi nhóm họp vào thứ Ba của Palmer, những tín hữu Giám Lý khởi đầu tiếp xúc với những người ngoài giáo hội như Thomas Upham thuộc giáo phái Tự trị Giáo đoàn. Upham là phái mạnh tiên phong đến tham gia những buổi nhóm, từ đó ông tìm hiểu và khám phá về những thưởng thức thần bí, tìm kiếm những giáo huấn trước đó về sự Thánh khiết của những tác giả như Johann Arndt và Madame Guyon .Những người khác không thuộc giáo phái Giám Lý cũng góp phần đáng kể cho Phong trào Thánh khiết. Suốt trong quá trình này, có hai nhân vật có quan hệ với Đại học Oberlin, Asa Mahan, viện trưởng và Charles Grandison Finney, nhà truyền bá phúc âm, cổ xuý và tăng trưởng tư tưởng Thánh khiết Cơ Đốc. Năm 1836, Mahan thưởng thức điều mà ông gọi là ” báp têm bởi Chúa Thánh Linh “. Mahan tin rằng kinh nghiệm tay nghề này giúp tẩy sạch khỏi ông mọi mong ước và khuynh hướng về tội lỗi. Trong khi đó, Finney tin rằng sự thưởng thức ” báp têm bởi Chúa Thánh Linh ” đáp ứng giải pháp thích đáng cho vấn nạn ông thường gặp trong những cuộc phục hưng tôn giáo. Có nhiều người xưng nhận đã từng trải qua kinh nghiệm tay nghề qui đạo nhưng sau đó lại sa ngã trở lại nếp sống cũ. Finney tin rằng thưởng thức được ” đầy dẫy Chúa Thánh Linh ” giúp tân tín hữu liên tục đứng vững trong nếp sống Cơ Đốc .
Một nhân vật thuộc giáo phái Trưởng Lão, William Boardman, góp phần cổ xuý tư tưởng Thánh khiết, qua các chiến dịch truyền bá phúc âm và qua một tác phẩm của ông, The Higher Christian Life (Nếp sống Cơ Đốc cao đẹp hơn), xuất bản năm 1858.
Năm 1870, Phong trào Thánh khiết phát triển đến Anh, được gọi với một tên khác Phong trào Nếp sống cao đẹp hơn, theo tựa đề cuốn sách của William Boardman The Higher Life. Các hội nghị của phong trào này tổ chức tại Broadlands và Oxford trong năm 1874 và tại Brighton và Keswick năm 1875. Keswick sau đó trở thành trụ sở của phong trào tại Anh.
Năm 1874, Albert Benjamin Simpson, sau khi đọc tác phẩm The Higher Life của Boardman, cảm thấy cần có một trải nghiệm như thế cho chính mình. Về sau Simpson tiến tới việc thành lập một tổ chức truyền giáo, Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (Christian and Missionary Alliance – CMA). Năm 1911, CMA gởi các nhà truyền giáo đến Đà Nẵng, thiết lập các cơ sở tôn giáo và bắt đầu truyền bá đức tin Kháng Cách trên lãnh thổ Việt Nam.
Lập nền trên giáo thuyết Toàn hảo Cơ Đốc của Phong trào Thánh khiết, chịu tác động ảnh hưởng bởi nhiệt tâm truyền giáo cùng việc ứng dụng những chiêu thức linh động trong công tác làm việc truyền bá phúc âm đã hình thành 1 số ít giáo phái và hội đoàn Cơ Đốc. Các giáo phái và hội đoàn Cơ Đốc này trở nên những tác nhân tích cực chuyển tải nền thần học tập chú và nếp sống Thánh khiết đến nhiều nơi trên quốc tế :
Liên kết ngoài.
Source: http://139.180.218.5
Category: Thuật ngữ đời thường