Đối với những định nghĩa khác, xem Thơ ( xu thế )

Thơ là hình thức nghệ thuật dùng từ trong ngôn ngữ làm chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình thức lôgíc nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc, người nghe. Từ thơ thường được đi kèm với từ câu để chỉ một câu thơ, hay với từ bài để chỉ một bài thơ. Một câu thơ là một hình thức câu cô đọng, truyền đạt một hoặc nhiều hình ảnh, có ý nghĩa cho người đọc, và hoàn chỉnh trong cấu trúc ngữ pháp. Một câu thơ có thể đứng nguyên một mình. Một bài thơ là tổ hợp của các câu thơ. Tính cô đọng trong số lượng từ, tính tượng hình và dư âm thanh nhạc trong thơ biến nó thành một hình thức nghệ thuật độc đáo, tách biệt hẳn khỏi các hình thức nghệ thuật khác.

Thơ có lịch sử lâu dài. Định nghĩa sớm nhất ở châu Âu về thơ có thể bắt đầu từ nhà triết học người Hy-Lạp Aristotle (384–322 TCN). Ở Việt Nam, thơ có thể bắt nguồn từ tục ngữ, ca dao mà ra. Những câu có vần điệu, dễ nhớ như Sấm bên đông, động bên tây vốn là những kinh nghiệm được đúc kết thông qua sự từng trải, sự quan sát các hiện tượng thiên nhiên, mà đúc kết lại, truyền từ đời nọ sang đời kia, giống như một thứ mật mã trong ngôn ngữ để truyền thông tin vậy. Những đúc kết bao gồm đủ mọi mặt trong cuộc sống, sau này khi được biến thành những câu ca dao, câu vè, chúng trở thành hình thức văn nghệ, giải trí.

Bạn đang đọc: Thơ – Wikipedia tiếng Việt

Thông qua giao lưu giữa các nền văn hóa, các thể loại thơ được tăng dần. Từ những cấu trúc đơn giản đến những cấu trúc phức tạp. Những xu hướng gần đây cho thấy, cấu trúc không còn là yếu tố quan trọng trong thơ. Trong các thể loại thơ ở Việt Nam, ta có thể kể đến vài loại như lục bát, song thất lục bát, các thể loại thơ Đường luật như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú rồi đến các loại thơ mớithơ tự do. Ngoại trừ thơ tự do, một hình thức hầu như không có một cấu trúc rõ rệt, các loại thơ khác hầu như đều có cấu trúc nhất định. Chặt chẽ nhất có thể là các loại thơ Đường, trong đó cấu trúc về nội dung, luật về số chữ trong câu, số câu trong bài, về cách gieo vần quyết định thể loại của bài thơ. Sự khắt khe trong cấu trúc làm cho thơ Đường trở nên gần như một hình loại văn học chỉ dành riêng cho các tầng lớp trung lưu trở lên, là những người có giáo dục đường hoàng. Chính vì sự khắt khe này, thơ Đường hiện nay dần dần bị phai nhạt và hầu như không còn ai để ý đến nữa.

Hiện nay, thơ trở thành hình thức thẩm mỹ và nghệ thuật phần nhiều ai cũng biết đến. Không ai đã từng trải qua quy trình giáo dục mà không biết vài câu thơ. Thơ còn trở nên hình thức để bày tỏ tâm tư nguyện vọng và tiềm ẩn tính phát minh sáng tạo của con người. Có thể nói, sự sống sót của thơ đi song song với sự sống sót của ngôn từ. Còn ngôn từ tức là còn thơ .

Một cách hiểu về thơ.

Thơ, thơ ca hay thi ca, là khái niệm chỉ các loại sáng tác văn học có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng. Một bài văn cũng có thể là một bài thơ nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc cho người đọc một cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, một bài thơ thường còn mang tính vần giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính trong bài. Thơ thường dùng như hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trước hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước thảm cảnh. Sự tương tác giữa tình cảm con người và hoàn cảnh tạo nên những cảm nghĩ mà người ta muốn bày tỏ với một phong độ chắt lọc, tinh khiết, không rườm rà, song có mức thông tin cao, đột phát, nhưng cô đọng và khúc chiết. Muốn làm được như vậy, người làm thơ phải có một con mắt quan sát chi tiết, tổng quát hóa, và nhanh chóng liên tưởng giữa những hình ảnh quan sát được với những gì vốn có trước đây.

Tính nhạc trong thơ là một hình thức làm cho bài thơ dễ được cảm nhận bởi người nghe hay người đọc và sức cảm nhận nhanh gọn này tương tự như như hiệu ứng của việc xem phim và nghe âm nhạc trong phim hòa quyện với nhau cùng một lúc. Câu chữ trong thơ văn, hay trong ngôn từ, giúp con người tái tạo lại hình ảnh mà nó miêu tả, tuy nhiên âm thanh và vần điệu của những từ lại gây cảm hứng về âm nhạc. Sự liên kết khôn khéo giữa hai đặc thù này của ngôn từ thôi thúc sự tìm tòi những từ có âm thanh hay, xác nhận với tình cảm người viết muốn truyền, đồng thời tìm tòi những từ mới. Tính âm nhạc còn biểu lộ trong việc sử dụng những từ diễn đạt âm thanh như ” rì rào “, ” vi vút “, ” ầm ầm “, ” lanh canh “, … Chính vì đặc thù này, việc làm thơ nhiều khi tựa như như việc làm toán, hoặc việc bài binh bố trận trong quân sự chiến lược, mà bài toán hay quân địch phải chinh phục chính là xúc cảm của họ, và câu chữ hoặc từ là phép toán hay lực lượng quân đội mà họ có, và người làm thơ phải nhanh gọn tìm ra giải pháp biểu tả tình cảm của mình dưới một hình thức cô đọng, hài hòa và hợp lý, với một số lượng từ rất nhỏ. Để lùng tìm những câu, chữ, từ, nghĩa nhanh gọn, người làm thơ thường phải kinh qua một quy trình rèn luyện vĩnh viễn, bằng cách đọc sách, học cách biểu tả tình cảm của mình bằng những câu chữ ngắn gọn, đồng thời có cảm quan nhạy bén với ngữ nghĩa của từ được dùng. Thơ còn yên cầu tính nghiên cứu và phân tích những từ ghép và cô đọng từ. Chính do đó, nhiều khi do làm thơ, người làm thơ dễ rơi vào thực trạng liên tưởng giữa từ của nghĩa này sang từ của nghĩa khác. Khi được dùng trong thơ, người ta còn gọi là sự ” chơi chữ ” .

Tính hội họa trong thơ, hay còn gọi là tính tạo hình, là một tính chất cơ bản. Người làm thơ, trước khi viết thơ, thường rơi vào tình trạng mà người ta gọi là “cảm hứng”. Trong tình trạng này, các hình ảnh thu được trong trí nhớ, có thể bao gồm cả các khung cảnh ở bên ngoài quan sát được, liên kết với nhau, tạo nên một thế giới nhỏ bé. Hình ảnh có thể rõ đến mức người ta gần như cảm thấy có thể động vào những vật thể, ngửi thấy mùi vị, thấy sự chuyển động của vật thể, thấy màu sắc v.v. Người làm thơ sẽ sống trong thế giới ấy trong khi họ đang nghĩ về bài thơ, họ sẽ đi lại, vào các góc của thế giới của mình, nhìn rõ hơn các vật cảnh, liên kết thêm những màu sắc, những chuyển động, những dãy liên tiếp của các sự kiện xảy ra, hay nói cách khác, họ xa rời cái thế giới mà họ đang sống. Chính vì hiện tượng này, người ta có câu nói đùa, chỉ các nhà thơ là thơ thẩn, nằm mơ hay mơ mộng như người ở trên cung trăng. Đây là một hiện trạng có thật. Sự hưng phấn do được sống trong thế giới riêng của mình, được sắp đặt nó theo ý riêng của mình, được thêm thắt, chắt lọc, được cho các vật chuyển động, xoay quanh các vật, chiêm ngưỡng chúng, cảm giác chúng v.v. gây nên sự ham mê, thôi thúc người làm thơ tiếp tục sống và diễn tả lại chúng bằng từ ngữ. Không những quan sát và diễn tả không thôi, họ còn phải nâng sự quan sát của họ lên đến một mức độ nhạy bén, hoa mỹ, không tầm thường – đây chính là sự khác biệt giữa thơ và truyện hay với các loại hình nghệ thuật khác. Một số cách dùng từ để thể hiện:

Quan sát Cách diễn tả thường thấy Cách diễn tả có tính thơ hơn
Mưa ảm đạm, xối xả, rầu rĩ thì thầm, lõm bõm, quất mặt, vắt nước, bạc trời đất, xiên ngang trời
Buồn thảm, rầu, ơi là buồn, héo hắt, tênh lãng đãng, nham nhở, đặc sệt, nhỏ giọt, thở khói đen, bám rễ, đeo trên ngực
Hoa nở, thắm, thơm lừng, thơm ngát, thơm nồng chúm chím, nứt ra, ngóc đầu, nhảy múa, hát vị ngọt, phanh lồng ngực tỏa hương

Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh thường được thấy rất nhiều trong các bài thơ. Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ mộng. Có những hình ảnh khắc khổ, vuông thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh đồ sộ, đôi khi gớm ghiếc. Mỗi một hình ảnh đều nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan của người làm thơ lúc họ viết. Một trong những ví dụ về hình ảnh có thể tìm thấy trong tập Truyện Kiều của Nguyễn Du:[1]

Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Do ảnh hưởng của quan niệm hội họa dưới thời người làm thơ còn sống, Nguyễn Du thường sử dụng phong thái thủy mặc trong thơ của mình. Phong cảnh đơn sơ, chấm điểm, phác thảo và nhẹ nhàng, nhưng không kém sức quyến rũ. Một câu khác của Bà Huyện Thanh Quan trong bài Qua đèo Ngang:

Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Hay Nguyễn Khuyến :

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Hay gần đây hơn của Trần Đăng Khoa trong bài Nghe thầy đọc thơ:

Em nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà
Mái chèo nghiêng mặt sông xa
Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa

Không chỉ là những hình ảnh đẹp, tĩnh tại, hình ảnh trong thơ còn động đậy, hoạt bát. Người đọc thơ vừa hình tượng được vật thể, vừa thấy màu sắc, vừa thấy sự chuyển động của chúng. Chính vì lý do này, nhiều khi các vật được miêu tả trong thơ được nhà thơ cho thêm tính “hoạt họa” của nó, hay còn gọi là “nhân cách hóa”. Dùng động từ cho những vật tưởng là vô tri, vô giác cũng giống như việc thổi sức sống vào trong vật thể, làm nó sống động trong đầu người đọc thơ. Chẳng hạn Trần Đăng Khoa đã viết trong bài Mặt bão:

Bão đến ầm ầm
Như đoàn tàu hỏa
Bão đi thong thả
Như con bò gầy

Hay trong bài “Góc Hà Nội

Nắng tháng tư xỏa mặt
Che vội vàng nỗi nhớ đã ra hoa.

..

Thành phố ngủ trong rầm rì tiếng gió
Nhà ai quên khép cửa
Giấc ngủ thôi miên cả bến tàu[2]

Đương nhiên khi đọc những câu thơ trên, chúng ta còn thấy tính ẩn dụ, so sánh hình ảnh. Tính tương đương của hình ảnh làm cho người đọc dễ liên tưởng hơn, đặc biệt khi để miêu tả một trạng thái với nhiều chi tiết mà tính chắt lọc của thơ không cho phép người ta được rườm rà. Ví von, ẩn dụ còn gây hiệu ứng về các trạng thái tình cảm, chẳng hạn như người ta cảm thấy những vật vô tri, vô giác, hay những hoàn cảnh tự nhiên bỗng trở nên đáng yêu hơn, ngộ nghĩnh hơn, đáng ghét hơn, hay đáng sợ hãi hơn v.v. Những hình ảnh ví von ngộ nghĩnh thường thấy trong các bài thơ của thiếu nhi làm, chẳng hạn mấy câu thơ [[Trần Đăng Khoa (nhà thơ)
|Khoa]] làm lúc 9 tuổi trong bài Buổi sáng nhà em:

Ông trời nổi lửa đằng đông
Bà sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay

..

Chị tre chải tóc bên ao
Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương
Bác nồi đồng hát bùng boong
Bà chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà

Song nó cũng xuất hiện trong những bài của những nhà thơ lớn tuổi. Ví dụ Nguyễn Mỹ trong bài Con đường ấy[3]:

Nắng bay từng giọt – nắng ngân vang
Ở trong nắng có một ngàn cái chuông

Hoặc Hàn Mặc Tử trong bài Một Nửa Trăng:

Hôm nay chỉ có nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi

Đặc biệt tính ví von trong thơ Hồ Xuân Hương gây nhiều trạng thái tình cảm nửa hư, nửa thực, gần như là trêu chọc người đọc, như trong bài Đánh Cờ :

Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.
Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.

Hay trong bài Ốc nhồi ( thơ Hồ Xuân Hương ) :

Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

Nếu hình ảnh trong đầu của nhà thơ không sôi động, thì người đọc thơ cũng không có cảm quan sôi động của bài thơ. Sự tương tác giữa họa, nhạc trong thơ hoàn toàn có thể gần như tựa như với sự góp phần của họa sỹ, nhạc sĩ, hay nói cách khác, sự dàn dựng một bộ phim, và họa sỹ, nhạc công, đạo diễn phim v.v. tổng thể đều chỉ bởi nhà thơ với ngòi bút và những từ ngữ trong một mạng lưới hệ thống ngôn từ mà ra .

Cách sử dụng dùng hình ảnh động đậy bằng việc cho thêm các động từ cũng thường được thấy trong các bài thơ Đường, đặc biệt là trong các vế đòi hỏi tính đối lập. Chẳng hạn Hồ Xuân Hương trong bài Lên chơi Đông Sơn tự:

Đông Sơn cảnh chiếm một hồ riêng,
Uyên báu bay về, khói pháp chen,
Đá núi điểm đầu, mưa phất xuống,
Ngàn hoa nở rộ, gió tung lên,
Đế Bà hương hỏa thơm bên xóm,
Trịnh Chúa xe qua vết cũ còn,
Cứu độ bè từ qua bể khổ,
Chim âu ngủ đứng bến ngư thôn.

Một điểm khá quan trọng trong phim ảnh, nhạc, thơ hoặc bất kể một hình thức nghệ thuật và thẩm mỹ nào là tính lôgic của những sự kiện. Sự tăng trưởng của những hình ảnh từ nhỏ đến lớn, từ trầm đến thanh, từ mịn màng đến không nhẵn v.v. phải luôn luôn được xem xét. Người đọc thơ bị hấp dẫn một phần cũng vì tính lôgic của nó. Rất nhiều bài thơ, ngay cả của những thi sĩ nổi tiếng, do sắp xếp những hình ảnh trong thơ thiếu tính lôgic mà bài thơ của họ không được mấy người chú ý. Những hình ảnh đẹp họ gợi lên, hay những tương tác giữa những nhân vật trong thơ, cũng như tiến trình dẫn đến cao trào không có một sự tăng trưởng lôgic nhất định, gây cảm xúc bấp bênh, lõm bõm, và rời rạc cho người đọc. Nhạc trong thơ, hay sự tiến trình của cao trào cũng như thoái trào trong thơ, cũng tương tự như như tiến trình của âm nhạc, yên cầu phải theo cung, theo nhịp và theo sự tiến triển của thời hạn. Trong hội họa tiến trình này còn được hiểu như tiến trình của những gam màu, đồng dạng hoặc trái chiều. Thơ không phải là một tổng hợp của những hình ảnh lộn xộn, tuy nhiên là một chuỗi những hình ảnh được gắn lại với nhau theo một quy trình sắp xếp hài hòa và hợp lý, không kể tính thuận nghịch. Chính vì đặc tính này, người làm thơ, hay những nhà thơ, còn hoàn toàn có thể được gọi là những ” nghệ sĩ “. Họ không chỉ là người biết nhiều từ vựng, biết mường tượng cảnh sắc giỏi, mà họ còn là người biết sắp xếp những sự kiện hài hòa và hợp lý, và những bài thơ của họ tái tạo lại tình cảm, tái tạo lại sự kiện trong đầu người đọc nhanh gọn và gắn bó, như sự tăng trưởng tình cảm của họ khi họ viết một bài thơ. Nắm bắt được sự tăng trưởng tình cảm của mình, kiến thiết xây dựng được cao trào yên cầu nhà thơ gần như có thêm một bản sao của chính mình. Họ phải quan sát cảm quan và sự tiến triển tình cảm của chính bản thân, ghi nhớ chúng và viết lại. Cảm quan của nhà thơ, sự quy tụ của những sự kiện bên ngoài, tính triết lý v.v. đều tác động ảnh hưởng bởi ngoại cảnh và thiên nhiên và môi trường xã hội. Không một nhà thơ nào không bị tác động ảnh hưởng của điều kiện kèm theo chính trị, lịch sử vẻ vang, phong thái tâm lý của thời đại khi họ còn sống .

Tứ thơ, hay ý tứ của bài thơ, là tình cảm, hình ảnh chủ đạo mà bài thơ muốn truyền đạt. Phong cách là cách chọn từ, cách diễn đạt ý tưởng của mình, chẳng hạn: ngộ nghĩnh, đơn sơ, mộc mạc, đơn giản, thanh thoát, gồ ghề, góc cạnh, mỉa mai, châm biếm, hoặc là cao thượng, đầy tính triết lý v.v. Cấu tứ của bài thơ là cấu trúcý tưởng gộp lại. Cách sắp xếp các câu thơ, sự sắp xếp của bài thơ, luật sử dụng trong bài thơ, vần điệu và tính nhạc đều là một phần của cấu tứ. Để có một cấu tứ tốt, người làm thơ thường phải nâng tầm mắt mình cao hơn tình cảm của mình, bao quát toàn bộ bài thơ, làm chủ chính tác phẩm của mình.

Một điểm nữa khá quan trọng, song lại có thể là lỗ hổng lớn nhất trong tất cả các bài bàn luận về thơ là dư âm. Dư âm là cảm quan người đọc có được sau khi đọc một cụm từ, một câu thơ, một đoạn thơ, hay một bài thơ. Tuy nguồn gốc của dư âm là ở bản thân cấu kết của các từ, cách sử dụng từ, của âm thanh và hình ảnh do các từ tạo ra, song kết quả của dư âm còn do ảnh hưởng của tâm trạng người đọc, cảm quan của người đọc, hay nói cách khác, khả năng cảm nhận của người đọc. Sở dĩ dư âm là một lỗ hổng lớn là vì tính khó bao trùm được của bất cứ một bàn luận nào về khía cạnh này. Có thể nói dư âm là kết xuất của cảm quan của người viết thơ cộng với cảm quan của người đọc thơ. Tạo được dư âm như mình mong muốn là cái thần của người làm thơ. Nó cũng tương tự như cảm quan của người nghe âm nhạc, sau khi nghe một đoạn nhạc. Tính mỹ thuật và âm hưởng của bài thơ, của đoạn nhạc là cái làm cho người ta nhớ và mến trọng. Có lẽ vì thế mà nhiều nhà thơ dùng ngoại cảnh để nói nội tình hơn là phân tích tình cảm nội tâm, tức là đi gián tiếp hay hơn là đi trực tiếp, hay lấy cái chung để nói cái riêng tư hay hơn là lấy cái riêng tư để nói cái riêng tư. Dư âm còn có thể là cái hương vị của bài thơ, từ đó người đọc cảm nhận được phong thái, cái hay cái đẹp trong tâm tư của nhà thơ. Nếu tôi nói hoa thơm thì người đọc chưa chắc đã cảm thấy hoa thơm, nhưng nếu tôi nói thoảng đưa trong không gian thì người đọc thấy cái gì nhè nhẹ, hình dung được cái hương bay. Hay nói cách khác, người làm thơ không diễn tả những gì hiển hiện trước mặt, không nói những gì hiển nhiên vốn có, bằng ngôn ngữ cửa miệng, đầu lưỡi, tức là thứ ngôn ngữ vẫn dùng thường ngày, song dùng một cách khác, gián tiếp chỉ đến điều mình muốn nói. Một trong những ví dụ là cách dùng hình ảnh cái bàn với những cái ghế trống rỗng trong vở nhạc kịch Những người khốn khổ, phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của Victor Hugo.

There’s a grief that can’t be spoken.
There’s a pain goes on and on.
Empty chairs at empty tables
Now my friends are dead and gone.

Phantom faces at the window.
Phantom shadows on the floor.
Empty chairs at empty tables
Where my friends will meet no more.

Tạm dịch :

Có những nỗi thương tiếc không bật được thành lời.
Có những nỗi đau lê gót chẳng dừng.
Những cái ghế vắng vẻ bên những cái bàn trống không
Những người bạn của tôi giờ đã chết và không còn nữa.

Ảo ảnh của những gương mặt ngoài cửa sổ.
Những bóng ma trên sàn nhà.
Những cái ghế vắng vẻ bên những cái bàn trống không
Nơi những người bạn của tôi không còn gặp nhau được nữa.

Nếu cộng những câu trên với bản nhạc hát chúng thành bài hát thì dư âm là những giọt nước mắt trào ra. Như vậy việc dùng hình ảnh gián tiếp để nói cái nỗi đau ở trong lòng có ảnh hưởng tác động mạnh hơn, có sức truyền cảm lớn hơn, hơn là chỉ đơn thuần nói ” những người bạn của tôi chết cả rồi ” .Làm thơ là việc khó và không phải ai cũng hoàn toàn có thể làm được. Nhiều khi người ta cho rằng năng lực làm thơ là một thiên phú, trời cho và thường gây xúc cảm thán phục nếu ai đó có năng lực ” xuất khẩu thành thơ “. Đương nhiên khi làm thơ, người làm thơ phải có hiểu biết và một trí tuệ nhất định, tuy nhiên kể cả khi dùng trí tuệ thì trí tuệ của người làm thơ cũng bị xúc cảm của tình cảm chủ quan chi phối .

  • Thơ là thể loại văn học lấy cảm xúc, lấy trí tuệ súc tích được diễn đạt theo hình thức có vần điệu hoặc tự do (không vần điệu). Trong việc sáng tác các thể loại văn học thì nhà thơ là người cần thiên phú nhất, cho nên ít khi do học mà làm được thơ hay, dù nếu đã làm được thơ hay và cũng được học thì vẫn tốt hơn.
  • Thơ tồn tại như một loại thể văn học, còn “chất Thơ” hay “chất Thi ca” thì tồn tại ở nhiều loại hình, loại thể văn nghệ và trong thiên nhiên nói chung. Ví dụ một phong cảnh đẹp, một không khí môi trường gợi cảm xúc thi ca – như mùa thu vàng, chiều đông tuyết nhẹ rơi lãng đãng, khi tiễn hay đón gặp lại người thân sau nhiều năm xa vắng… làm cho tâm hồn tràn lên cảm xúc trữ tình, khiến ta như muốn ca lên, hát lên để biểu lộ một cái gì đó dạt dào hay xao xuyến.

Nói tóm lại thi ca là toàn bộ những gì thuộc tình cảm và lý trí chịu sự chi phối của xúc cảm rung động phong phú của con người. Khi nào bạn còn những rung động đó, nghĩa là tâm hồn bạn còn chất thi ca, còn khiến bạn sống có ý nghĩa hơn trên cõi đời này. Thơ, ngoài đặc thù đó, lại là một nghệ thuật và thẩm mỹ tuân theo những đặc thù riêng của thể loại này – trong đó yếu tố trời cho làm thơ là số một. Những đặc thù riêng của thể loại thơ là một yếu tố lớn, mà muốn hiểu nó tất cả chúng ta cần tìm hiểu thêm từ nhiều nguồn như những giáo trình văn học, cũng như những nguồn khác .
Âm ( sound ) do sự nhóm họp của một hoặc nhiều nguyên âm tạo nên. Những âm gần giống nhau, không kể những phụ âm đứng trước hay đứng sau hay sự tác động ảnh hưởng của những dấu gây sự trầm bổng của âm, tạo nên vần trong thơ. Chẳng hạn, âm đơn :

à, ca, cha, đá, , ta

âm kép :

biên, chiêm, chuyên, xuyên

Bảng phân các loại âm sau đây được trích từ Hệ thống thanh trong tiếng Việt (Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm):

Loại thanh Tên các thanh Dấu chỉ thanh Ghi chú
Bằng phù bình thanh
trầm thượng thanh
không có dấu
dấu huyền
Trắc phù thương thanh
trầm thương thanh
phù khứ thanh
trầm khứ thanh
ngã (~)
hỏi (?)
sắc (‘)
nặng (.)
phù nhập thanh
trầm nhập thanh
sắc (‘)
nặng (.)
riêng cho các tiếng
đằng sau có phụ âm
t, c, p và ch

Nếu lựa từ sao cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai, ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự như và có cùng thanh ( hoặc là cùng bình thanh hoặc là cùng trắc thanh ). Trong thơ, yếu tố hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ .
Vần ( rhyme ) là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối những câu trong bài thơ với nhau. Thường vần được dùng để nối câu gieo vào chữ sau cuối của câu thơ. Có hai loại vần :

  • vần bình: những chữ không dấu hoặc dấu huyền — ba, bà
  • vần trắc: những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng — bả, bã, bá, bạ

Chữ ” đấy “, ” cấy ” cùng phát ra một âm ” ây ” tuy nhiên đều thuộc trắc thanh. Những tiếng ” dâu “, ” màu “, ” sầu ” có âm ” âu ” và ” au ” và thuộc bình thanh .Vần thể còn được ý niệm là vần giàu hay nghèo :

  • Vần giàu (hay còn gọi là Vần Chính): những chữ có cùng âm và thanh
    • Thanh bằng: Phương, sương, cường, trường
    • Thanh trắc: Thánh, cảnh, lãnh, ánh
  • Vần nghèo (hay còn gọi là Vần Thông): đồng thanh nhưng với âm tương tự
    • Thanh bằng: Minh, khanh, huỳnh, hoành
    • Thanh trắc: Mến, lẽn, quyện, hển

Ví dụ hai câu dùng vần chính:

Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông[4]
Cưỡng vận
Khi hai vần là vần thông với nhau mà thôi.

Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san
Lạc vận
Khi hai vần không thuộc vần chính hay vần thông.

Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

Trong thơ Việt, có hai cách gieo vần

  • Gieo vần ở giữa câu (yêu vận hay “vần lưng”): Chữ cuối của câu trên vần với một chữ nằm bên trong câu dưới như trong thể thơ lục bát, chữ cuối câu có sáu chữ vần với chữ thứ sáu của câu tám chữ sau đó. Chẳng hạn truyện Kiều (1(6)-2(6)) (2(8)-3(6)) (3(8)-4(6)) (4(8)-..):
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
  • Gieo vần ở cuối câu (cước vận hay “vần chân”): Các chữ ở cuối câu vần với nhau.
Vần tiếp
Các cặp trắc bằng xen kẽ tiếp nhau. Chẳng hạn Xuân Diệu trong Tương Tư Chiều (2,3) (4,5) (6,7):

  1. Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm,
  2. Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em.
  3. Không gì buồn bằng những buổi chiều êm,
  4. Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.
  5. Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối;
  6. Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành;
  7. Mây theo chim về dãy núi xa xanh
  8. Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ.
  9. Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.
Vần chéo
Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ ba và chữ cuối câu thứ hai vần với câu thứ tư. Chẳng hạn Anh Thơ trong bài Tiếng chim tu hú (1,3) (2,4):

  1. Nắng hè đỏ hoa gạo
  2. Nước sông Thương trôi nhanh
  3. Trên đường đê bước rảo
  4. Gió nam giỡn lá cành
Nhiều khi chỉ cần chữ cuối câu thứ hai vần với câu thứ tư mà thôi. Chẳng hạn Quang Dũng trong bài Đôi bờ (2,4):

  1. Xa quá rồi em người mỗi ngả
  2. Bên này đất nước nhớ thương nhau
  3. Em đi áo mỏng buông hờn tủi
  4. Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
Vần ôm
Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ tư và chữ cuối câu hai vần với câu thứ ba. Vần trắc ôm vần bằng, hay ngược lại. Chẳng hạn Nguyên Sa trong Áo lụa Hà Đông (1,4) (2,3):

  1. Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
  2. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
  3. Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
  4. Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Vần ba tiếng
Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu một, câu hai và câu thứ tư vần với nhau. Câu ba khác vần. Chẳng hạn Thâm Tâm trong Tống Biệt Hành (1,2,3).

  1. Đưa người ta không đưa qua sông
  2. Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
  3. Bóng chiều không thắm không vàng vọt
  4. Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Cách gieo vần dùng chữ cuối cùng của câu cũng xuất hiện trong các bài thơ của châu Âu, chẳng hạn như hai câu trích trong bài On His Being Arrived to the Age of Twenty-three của nhà thơ người Anh John Milton (tiếng Anh):

That I to manhood am arrived so near,
And inward ripeness doth much less appear,

Hay tạm dịch là :

Tuổi thanh xuân đến quá nhanh
Đã nào một chút trưởng thành trong tôi

Ở đây âm “ia” (của nearappear) được dùng để làm vần nối hai câu thơ.

Điệu (rhythm), hay còn gọi là nhạc điệu, tạo nên do âm thanh của từ được chọn và nhịp điệu ngắt câu. Nhạc trong thơ được tạo nên bởi ba yếu tố: vần, tiết tấu và từ. Thơ lục bát, ca dao là một thể loại giàu nhạc tính.

  • Âm hưởng của vần:
(a)- Vần bằng thường gây cảm giác nhẹ nhàng, mềm mại.

Gió mơn man sợi nắng mành
Sương còn đu ngọn lá xanh miệt mài
Dương gian hé rạng hình hài
Trời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi[5]
(b) – Vần trắc thường gây cảm giác mạnh mẽ, động đậy, tỉnh thức.

Gió mơn man sợi nắng mành
Sương còn đu ngọn lá xanh miệt mài
Dương gian hé rạng hình hài
Trời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi
  • Tiết tấu của câu: Tiết tấu là nói đến cái nhịp, cái điệu của câu thơ. dựa vào chỗ ngắt đoạn, tức chỗ chia câu thành từng vế, mỗi vế có nghĩa trọn vẹn. Đó là nhịp dài (–), khi ngâm người ta ngừng lại ngân nga lâu một chút. Ngoài ra, trong mỗi vế, khi ngâm tùy theo hứng, người ta cũng có thể ngừng lại ngân nga ngắn hơn ở những chỗ vế chia thành từng bộ phận, đó là nhịp ngắn (-).
Dương gian (-) hé rạng (-) hình hài (–)
Trời (-) se sẽ lạnh (-), đất ngai (–) ngái mùi(–)
  • Nhịp trong thơ: tạo nên do sự phân định của câu và của từ, tương tự khi viết cho dấu phẩy, khi đọc ngưng hơi.
Nhịp (4/4) – (2/2/2/2)
Em ngồi cành trúc (–) em tựa cành mai (–)
Đông đào (-) tây liễu (-) biết ai (-) bạn cùng (–)
Nhịp (2/2/2) – (2/2/2/2)
Trời mưa (-) ướt bụi (-) ướt bờ (-)
Ướt cây (-) ướt lá (–) ai ngờ (-) ướt em (–)
Nhịp (2/4) – (2/2/2/2)
Yêu mình (–) chẳng lấy được mình (–)
Tựa mai (-) mai ngã (–) tựa đình (-) đình xiêu (–)
Nhịp (2/4) – (4/4)
Đố ai (-) quét sạch lá rừng (–)
Để ta khuyên gió (–) gió đừng rung cây (–)
Nhịp (2/4) – (2/4/2)
Hỡi cô (-) tát nước bên đàng (–)
Sao cô (-) múc ánh trăng vàng (–) đổ đi (–)
Nhịp (4/2) – (2/4/2)
Trách người quân tử (-) bạc tình (–)
Chơi hoa (–) rồi lại bẻ cành (–) bán rao (–)
Nhịp (3/2/2) – (4/3/2)
Đạo vợ chồng (-) thăm thẳm (-) giếng sâu (–)
Ngày sau cũng gặp (–) mất đi đâu (-) mà phiền (–)
  • Nhạc tính của từ: Theo ngữ học, mỗi từ đơn của ta thường là một âm tiết, khi phát lên nhẹ hay mạnh, trong hay đục là tùy theo vị trí phát âm của nó trong khẩu cung (kể từ môi đến cuống họng, kể cả độ mở của miệng). Một từ được phát lên tại vị trí nào trong khẩu cung là phải chịu ảnh hưởng của bốn yếu tố tạo nên nó: nguyên âm, phụ âm đầu, phụ âm cuối và thanh. Vì thế từ nào có:
  1. nguyên âm bổng như: i, ê, e
  2. phụ âm vang như: m, n, nh, ng
  3. thanh bổng như: không dấu, dấu sắc, dấu hỏi, thì từ được phát ra, âm sẽ cao, trong và nhẹ.
Ngược lại, từ nào gặp phải:

  1. nguyên âm trầm: u, ô, o,
  2. phụ âm tắc: p, t, ch, c,
và thanh trầm: dấu huyền, dấu ngã, dấu nặng thì từ phát ra âm sẽ đục và nặng.
Sự trong đục của các từ ngắt nhịp trong câu, và nhất là của các từ dùng làm vần có ảnh hưởng nhiều nhất đến nhạc tính của thơ.
Hôm qua (-) tát nước đầu đình (–)
Bỏ quên cái áo (-) Trên cành hoa sen (–)
Em được (–) thì cho anh xin (–)
Hay là (-) em để làm tin (-) trong nhà. (–)
Những từ ngắt nhịp và những từ dùng làm vần trong 4 câu thơ này hầu hết đều có những yếu tố tạo nên âm vang và trong, nên nhạc thơ nghe vui, diễn tả được tình cảm trong sáng, yêu đời của chàng trai ở đây.
Nụ tầm xuân (-) nở ra xanh biếc. (–)
Em đã có chồng (–) anh tiếc (-) lắm thay. (–)
Âm “iếc” trong 2 từ “biếc” và “tiếc” lấy làm vần ở đây có 2 nguyên âm bổng (iê) vút cao với thanh sắc cũng thuộc loại thanh bổng nhưng đã bị đứt hơi, tắc nghẽn bởi phụ âm cuối ‘c’, được mệnh danh là âm tắc, nên khi đọc lên nghe như tiếng nấc, nhạc thơ vì vậy chậm lại, nghe nghẹn ngào, tức tưởi. Như thế, vần “iếc” ở đây gieo rất đắt, đã cực tả được nỗi tiếc nuối đứt ruột của chàng trai khi trở lại chốn cũ, gặp lại người xưa, tình mình thì đang nồng, người mình yêu lại quá đẹp, nhưng than ôi muộn mất rồi, vì nay nàng đã là gái có chồng!
Yêu ai tha thiết, thiết tha
Áo em hai vạt trải ra chàng ngồi.
Đôi khi để đảm bảo cho nhạc tính của câu ca dao (âm luật, âm vận), những âm tiết của từ kép có thể đảo ngược vị trí. Như câu ca dao trên hai âm tiết “tha thiết” được đảo thành “thiết tha” vì thể lục bát chỉ gieo vần bằng (tha, ra).
Thơ hoặc ca dao hay sử dụng từ láy, nhờ sự lập lại toàn thể hay một số yếu tố của từ gốc mà từ láy khi phát âm, hai điểm phát âm sẽ trùng nhau (từ láy hoàn toàn) hay tiến sát gần nhau (từ láy không hoàn toàn) tạo thành một chuỗi hòa âm, giúp cho nhạc điệu của thơ vừa phong phú, vừa tăng uyển chuyển, nhịp nhàng.

Luật làm thơ (rule):
Vần bằng (hay cũng gọi là “bình”) được ký hiệu bằng B, vần trắc được ký hiệu bằng T, vần không theo luật ký hiệu bằng số 0 (vần tự do, có thể là thanh bất kì, bằng hoặc trắc).

Thơ lục bát.

Thơ lục bát có nguồn gốc truyền kiếp, là một thể thơ dân tộc bản địa ta, thơ lục bát gồm có hoàn toàn có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng ( câu lục ) và một câu 8 tiếng ( câu bát ), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không số lượng giới hạn .


Lục bát là một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (lục bát và song thất lục bát). Thơ lục bát ở Việt Nam được truyền bá và phát triển hàng trăm năm nay. Thơ lục bát đã thấm đẫm tâm hồn người Việt chúng ta vì đó là thể thơ trong ca dao, đồng dao và các bài ru con. Ngày nay thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát rất giản dị về quy luật, dễ làm, thường dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.

Thơ lục bát có nguồn gốc truyền kiếp, là một thể thơ dân tộc bản địa ta, thơ lục bát gồm có hoàn toàn có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng ( câu lục ) và một câu 8 tiếng ( câu bát ), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không số lượng giới hạn. Thông thường thì mở màn bằng câu sáu chữ và chấm hết ở câu tám. Nhưng cũng có khi kết thúc bằng câu sáu để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay diễn đạt sự bất ngờ đột ngột. Thơ lục bát cũng cần tuân thủ luật về thanh và vần, thế cho nên khám phá thơ lục bát là khám phá về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính những câu thơ lại với nhau .Luật thanh trong thơ lục bát ; Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận ; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là những tiếng thứ 1,3,5 trong câu hoàn toàn có thể tự do về thanh, nhưng những tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật ngặt nghèo. Luật như sau :

Câu số Vần
1 0 B 0 T 0 B
2 0 B 0 T 0 B 0 B
Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7 8

Ví dụ :Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân ( B – T – B )Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều( Tố Hữu )Về phối thanh, chỉ bắt buộc những tiếng thứ tư phải là trắc, những tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng, nhưng trong câu tám những tiếng thứ sáu thứ tám phải khác dấu, nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại :Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao

Thế nhưng nhiều lúc hoàn toàn có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, hoàn toàn có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể .Ví dụ :Có xáo thì xáo nước trong T-T-BĐừng xáo nước đục đau lòng cò con T-T-B-BHay :Con cò lặn lội bờ sôngGánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non T-B-T-BCách gieo vần trong thơ lục bát : Thơ lục bát có cách gieo vần khác với những thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh động về vần. Thể thơ lục bát thường được gieo vần bằng ; tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của cậu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp ; cứ như thế đến hết bài lục bát :Trăm năm trong cõi người taChữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhauTrải qua một cuộc bể dâuNhững điều trông thấy mà đau đớn lòngNhư thế ngoài vần chân có cả ở hai câu 6, 8 lại có cả vần lưng trong câu tám. Tiểu đối trong thơ lục bát : Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 ( hoặc thứ 4 ) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại .Ví dụ :Đau đớn thay phận đàn bàLời rằng bạc mệnh cũng là lời chung .Ngoài đối thanh còn có đối ý :Dù mặt lạ, đã lòng quen( Bích câu kì ngộ )Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát : Thơ lục bát thường thì ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, hoặc 4/4 để miêu tả những tình cảm thương mến, buồn đau …Người thương / ơi hỡi / người thươngĐi đâu / mà để / buồng hương / hờ hữngĐôi khi để nhấn mạnh vấn đề nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3 :Chồng gì anh / vợ gì tôiChẳng qua là cái nợ đời chi đâyKhi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, can đảm và mạnh mẽ, bất ngờ đột ngột hay tâm trạng không bình thường, bất định thì hoàn toàn có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5 …Thể thơ lục bát với cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp đơn giản và giản dị mà biến hóa vô cùng linh động, đa dạng và phong phú và phong phú, nó rất dồi dào năng lực diễn đạt. Đa số ca dao được sáng tác theo thể lục bát. Theo thống kê của những nhà nghiên cứu có hơn 90 % lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thểthơ nàyTừ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên hoàn toàn có thể thấy về cơ bản thể thơ lục bát vẫn là thể thơ nền nã, gọn gàng với những pháp luật rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về tính năng đảm trách của mỗi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần … đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu yếu diễn đạt tình cảm ngày càng nhiều mẫu mã, phong phú phá vỡ khuôn hình 6/8 thường thì. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là tín hiệu đặc trưng cho ta nhận ra nó vẫn là thể lục bát .Bên cạnh lục bát truyền thống cuội nguồn còn có lục bát biến thể là những câu có hình thức lục bát nhưng không phải trên sáu dưới tám mả có sự co và giãn nhất định về âm tiết về vị trí hiệp vần … Hiện tượng lục bát biến thể là yếu tố đáng chú ý quan tâm trong ca dao, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể xem xét một số ít trường hợp : lục bát biến thể tăng, tiếng lục bát biến thể giảm số tiếng .Xét về mặt nội dung thơ lục bát diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Thông thường người tầm trung hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong đời sống, hoạt động và sinh hoạt, tình yêu … do vậy thể thơ đa phần của ca dao vẫn là thể lục bát vì nó có năng lực diễn đạt tất thảy những cung bậc cảm hứng như : tình yêu trai gái, tình yêu mái ấm gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất đai, yêu lao động, yêu vạn vật thiên nhiên …. Dân tộc nào cũng có một thể thơ, một điệu nhạc tương thích với cách điệu đời sống của dân tộc bản địa đó. Lục bát là thể thơ hài hoà với nhịp đập của tâm hồn, nếp nghĩ, cách hoạt động và sinh hoạt của dân cư Nước Ta. Ca dao, lời nói mang đầy âm sắc dân tộc bản địa cũng được chuyển tải bằng lục bát. Việc phát minh sáng tạo thể thơ độc lạ này bộc lộ đời sống ý thức đa dạng chủng loại của người tầm trung, rất nhiều nhà thơ thành công xuất sắc nhờ thể thơ này. Những truyện thơ vĩ đại nhất của Nước Ta như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được bộc lộ bằng hình thức thơ Lục bát. Sau này những nhà thơ văn minh cũng đã rất thành công xuất sắc khi vận dụng thể lục bát trong những sáng tác của mình. Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn tiêu biểu vượt trội cho dòng lục bát dân gian. Dòng lục bát trí tuệ hoàn toàn có thể xem Lửa thiêng của Huy Cận trong trào lưu Thơ Mới là thành tựu khởi đầu. Dòng lục bát văn minh có Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Tố Hữu …Bởi cái chất duyên dáng, kín kẽ, không ồn ào của lối nghĩ phương Đông, lục bát đã giữ cho mình luôn có cái vẻ nền nã. Ngày nay thể lục bát vẫn là niềm tự hào của dân tộc bản địa Nước Ta .

Thơ tuy nhiên thất lục bát.

Song thất là hai câu bảy chữ nối theo hai câu lục bát. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã được Đoàn Thị Điểm diễn nôm lại bằng thể thơ này. Trong câu bảy chữ trên, chữ thứ ba là vần trắc, chữ thứ năm là vần bình, chữ thứ bảy là vần trắc; trong câu bảy chữ dưới, chữ thứ ba là vần bình, thứ năm là vần trắc, và chữ thứ bảy là vần bình. Hai câu lục bát tiếp sau thì theo luật thường lệ.

Câu số Vần
1 0 0 T 0 B 0 T
2 0 0 B 0 T 0 B
3 0 B 0 T 0 B
4 0 B 0 T 0 B 0 B
Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7 8
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp lại về buồng gối chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh

Chữ sau cuối của câu có bảy chữ trên vần với chữ thứ năm của cây bảy chữ dưới, chữ cuối câu bảy chữ ở dưới vần với chữ cuối của câu sáu chữ trong hai câu lục bát tiếp theo, chữ cuối câu sáu chữ lục bát vần với chữ thứ sáu của câu có tám chữ, và chữ cuối của câu tám chữ lục bát vần với chữ thứ năm của câu bảy chữ tiếp theo. Tuy nhiên, chữ cuối câu lục bát tám chữ cũng hoàn toàn có thể vần với chữ thứ ba câu bảy chữ, đổi khác âm trong vần chữ này đổi sang vần bình. Do đó, chữ thứ ba trong câu bảy chữ trên hoàn toàn có thể là trắc hay bằng .

Câu số Vần
1 0 0 0 0 B 0 T
2 0 0 B 0 T 0 B
3 0 B 0 T 0 B
4 0 B 0 T 0 B 0 B
Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7 8
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
Nhủ rồi tay lại trao liền
Bước đi một bước lại vin áo chàng

Thơ bốn chữ.

Nếu chữ thứ hai là vần bằng thì chữ thứ tư là vần trắc .

Câu số Vần
1 0 T 0 B
2 0 B 0 T
Chữ thứ 1 2 3 4
Bão đến ầm ầm
Như đoàn tàu hỏa[6]

trái lại, nếu chữ thứ hai là vần trắc thì chữ thứ tư là vần bằng .

Câu số Vần
1 0 B 0 T
2 0 T 0 B
Chữ thứ 1 2 3 4
Chim ngoài cửa sổ
Mổ tiếng võng kêu[7]

Song nhiều bài thơ không theo luật ở trên .

Bão đi thong thả
Như con bò gầy

Thơ năm chữ.

Tương tự như luật của thơ bốn chữ ở trên, song cũng nhiều trường hợp không theo luật.

Hôm nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương[8]

Thơ sáu chữ.

Dùng chữ cuối cùng, với cách gieo vần như vần chéo hoặc vần ôm:

Vần chéo
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Đỗ Trung QuânQuê Hương
Vần ôm
Xuân hồng có chàng tới hỏi:
— Em thơ, chị đẹp em đâu?
— Chị tôi tóc xõa ngang đầu
Đi bắt bướm vàng ngoài nội

Huyền KiêuTình sầu

Thơ bảy chữ.

Do ảnh hưởng của Thất ngôn tứ tuyệt trong thơ Đường, thơ bảy chữ hiện nay vẫn còn mang âm hưởng luật của nó. Có hai loại câu:

Vần bằng
Câu số Vần
1 0 B 0 T 0 B B
2 0 T 0 B 0 T B
3 0 T 0 B 0 T T
4 0 B 0 T 0 B B
Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7
Quanh năm buôn bánmom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông[9]
Tú Xương – Thương vợ

Hay gần đây hơn :

Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

(Quang DũngĐôi mắt người Sơn Tây)
Vần trắc
Câu số Vần
1 0 T 0 B 0 T B
2 0 B 0 T 0 B B
3 0 B 0 T 0 B T
4 0 T 0 B 0 T B
Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7
Lẳng lặngnghechúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu[10]

Hiện nay, thể thơ này được cải biên và nó chỉ còn là :

Câu số Vần
1 0 B 0 T 0 B 0
2 0 T 0 B 0 T 0
Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

Tô Thùy YênTa về

Thơ tám chữ.

  • Chữ cuối có vần trắc thì chữ thứ ba là vần trắc, chữ thứ năm và sáu là vần bằng
Vần
0 0 T 0 B B 0 T
Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7 8
  • Chữ cuối có vần bằng thì chữ thứ ba là vần bằng, chữ thứ năm và sáu là vần trắc.
Vần
0 0 B 0 T T 0 B
Chữ thứ 1 2 3 4 5 6 7 8

Nhưng nhiều lúc cũng không như vậy .

Cách gieo vần.

Vần tiếp
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,
Tôi sẽ trách — cố nhiên — nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau… lơ lửng… với nghìn xưa…

Hồ DzếnhNgập Ngừng
Vần chéo
Trong ánh nắng hạt sương dần nhẹ bỗng
Rồi tan vào thoáng đãng trời xanh
Cánh hoa mỏng rập rờn với gió
Có nhớ về hạt sương sớm long lanh?

Hải KỳGiấc mơ
Vần ôm
Đêm Trường Sơn. Lá với nước rầm rì
Hơi đá lạnh nép mái nhà nghe ngóng
Chúng tôi ngồi xòe tay trên lửa nóng
Máu bàn tay mang hơi lửa vào tim

Nguyễn Khoa ĐiềmBếp lửa rừng

Muốn cho thơ tám chữ thêm âm điệu, một số ít nhà thơ thường gieo vần chữ thứ tám của câu trên với chữ thứ năm hay sáu của câu dưới :

Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
Những hào hùng, uất hận gối lên nhau

Cao TầnTa làm gì cho hết nửa đời sau?
  1. Thơ lục bát
  2. Thơ song thất lục bát
  3. Thơ bốn chữ
  4. Thơ năm chữ
  5. Thơ sáu chữ
  6. Thơ bảy chữ
  7. Thơ tám chữ
  8. Thơ tự do

Các dạng thơ nổi tiếng trên quốc tế.

Các nhà thơ nổi tiếng trên quốc tế.

Xem bài: Nhà thơ

Liên kết ngoài.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *