Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Thiên – Địa – Nhân: Triết lý phương Đông về sự phát triển bền vững

( BĐT ) – Trong lịch sử dân tộc trái đất, một cuộc tranh luận về văn hóa truyền thống Đông – Tây đã diễn ra sôi sục và lê dài. Thời gian đầu, người ta thường nhấn mạnh vấn đề đến sự độc lạ giữa hai nền văn hóa truyền thống, kèm theo là một ứng xử cực đoan cảm tính, ủng hộ bên này thì mặc nhiên bác bỏ bên kia .Gần đây, những bên đã có một thái độ duy lý, mềm dẻo và khoan dung hơn. Vì lẽ Đông và Tây cùng đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng cần bổ trợ nhau, hướng tới một viễn cảnh văn hóa truyền thống dung hợp trong một quốc tế toàn thế giới hóa, phong phú về truyền thống và phổ quát về giá trị.

Phát triển bền vững dưới 2 góc nhìn Đông, Tây

Trong vài thập niên gần đây, “phát triển bền vững” đã trở thành một cụm từ khóa thời thượng trong giới truyền thông đại chúng và nghiên cứu học thuật. Hiểu theo nghĩa rộng, phát triển bền vững có thể áp dụng ở nhiều cấp độ: quốc tế, khu vực, quốc gia, vùng miền, các cộng đồng người, gia đình cũng như từng cá nhân.

Theo Tổ chức Hợp tác kinh tế tài chính và Phát triển ( OECD ), tăng trưởng bền vững và kiên cố là sự tăng trưởng phân phối những nhu yếu riêng của chính họ trong hiện tại mà không làm phương hại đến những thế hệ tương lai. Nói một cách khác, tăng trưởng bền vững và kiên cố là một mô hình tăng trưởng với tầm nhìn xa xuyên thế hệ, được bảo vệ bảo đảm an toàn, một sự tăng trưởng tổng lực, cân đối giữa kinh tế tài chính, xã hội và văn hóa truyền thống, lấy con người và chất lượng đời sống làm TT, là điểm xuất phát ban đầu, đồng thời cũng là điểm đến sau cuối. Trong lịch sử dân tộc văn hóa truyền thống quả đât, phương Đông và phương Tây đều đã có những cách tiếp cận riêng của mình dưới những góc nhìn khác nhau so với tăng trưởng vững chắc. Trong đó, có triết thuyết Thiên – Địa – Nhân của phương Đông, còn gọi là thuyết Tam Tài. Triết lý Thiên – Địa – Nhân bắt nguồn từ rất sớm trong tư tưởng cổ đại Trung Hoa. Theo Kinh Dịch cũng như lời bàn của Chu Hy sau này, trong mỗi quẻ đơn Bát quái đều có ba vạch bộc lộ Tam Tài ( ba cõi ), sau tăng trưởng thành những quẻ kép 6 hào ( hai hào trên là Thiên, hai hào giữa là Nhân, hai hào dưới là Địa ). Lão Tử viết trong Đạo Đức Kinh : “ Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên ” ( Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên ). Đổng Trọng Thư, chủ tướng Hán Nho đã hình thành thuyết “ Thiên Địa Vạn Vật đồng nhất thể ” và “ Thiên Nhân tương dữ ” nói về tính thống nhất và mối liên hệ khăng khít của ngoài hành tinh : “ Trời, Đất và Người là nguồn gốc của vạn vật. Trời sinh ra vạn vật, Đất nuôi chúng, Người hoàn thành xong chúng. ” ( Thiên Địa Nhân, vạn vật chi bản dã. Thiên sinh chi, Địa dưỡng chi, Nhân thành chi ). Theo đó, Thiên là khung trời, ông Trời, những hiện tượng kỳ lạ vạn vật thiên nhiên, Địa là mặt đất với giới tự nhiên, vạn vật. Nhân là con người, hội đồng xã hội người.

Trong cụm từ Thiên – Địa – Nhân, Người đứng ở vị trí thứ ba, nhưng thực ra tồn tại giữa Trời và Đất, có liên hệ tương tác thuận nghịch chặt chẽ với trời đất, vạn vật, xã hội. Quy giản theo những thuật ngữ hiện đại, chúng ta có chùm ba khái niệm: “Thiên nhiên – Xã hội – Con người”, hoặc đúng hơn là “Con người – Xã hội – Thiên nhiên”.

Triết lý Thiên – Địa – Nhân bao hàm hai nội dung cốt lõi. Thứ nhất, ba thành tố của nó thống nhất về thực chất, chuyển hóa lẫn nhau. Thứ hai, ba thành tố đó có tương tác can đảm và mạnh mẽ tới nhau theo chiều nghịch hoặc thuận, hướng tới một trật tự hài hòa. Đó chính là sự hoạt động âm – dương của đạo Trời, đạo Đất và đạo Người. Có thể coi triết lý Thiên – Địa – Nhân là một học thuyết nhất nguyên lưỡng cực, tương tự như như những định luật chuyển hóa và bảo toàn nguồn năng lượng trong vật lý học hoặc quy luật thống nhất – xích míc trong phép duy vật biện chứng của phương Tây. Trong yếu tố tăng trưởng vững chắc, triết lý Thiên – Địa – Nhân dạy con người phải ghi nhận kính Trời, tức tôn trọng, hòa giải và hòa hợp với môi trường tự nhiên Thiên nhiên. Lâu nay, con người trượt theo đà duy lý khai minh, đã trở nên quá kiêu ngạo trong tham vọng “ chinh phục vạn vật thiên nhiên ”, đối xử có phần “ hỗn xược ” với Trời Cha, Đất Mẹ. Sự trừng phạt giờ đây đã trở thành nhãn tiền, do việc tăng trưởng nóng vội quá đà, gây tổn hại tới Thiên nhiên. Môi trường sinh thái trên rừng dưới biển bị ô nhiễm, hủy hoại, nguy cơ biến đổi khí hậu, sự ngày càng tăng đến mức báo động những thiên tai, nhân tai, dịch bệnh. Đã đến lúc con người phải kịp thời hối lỗi, trở lại làm lành, hòa giải, thân thiện với vạn vật thiên nhiên. Triết lý Thiên – Địa – Nhân cũng dạy tất cả chúng ta phải tôn trọng, tuân thủ đạo Đất cũng như đạo Người. Phát triển bền vững và kiên cố lôi kéo một sự tăng trưởng tổng lực, tương ứng, hòa giải, cân đối giữa những chiều kích kinh tế tài chính – kỹ thuật với chiều kích văn hóa truyền thống – nhân văn. Phát triển đâu chỉ là tăng trưởng. Đối tượng và tiêu chuẩn đích thực của tăng trưởng vững chắc phải chính là những con người bằng xương bằng thịt, chứ không phải là những số lượng trần trụi, dù thực hay ảo. Muốn vậy, việc hoạch định tăng trưởng phải thuận lòng người và dư luận xã hội, mang lại quyền lợi thiết thực cho hội đồng, mà không chỉ tuân theo một giáo điều hay Giao hàng một nhóm quyền lợi. Những tư tưởng lớn thường gặp nhau. Bằng những ngôn từ diễn đạt độc lạ, triết lý Thiên – Địa – Nhân truyền thống lịch sử đã san sẻ tiếng nói chung và những gợi ý tích cực với những luận cứ khoa học tân tiến trong yếu tố tăng trưởng vững chắc trên toàn thế giới cũng như ở Nước Ta. Trong đời thường, triết thuyết còn được ứng dụng như một mục tiêu xử thế, một kiến thức và kỹ năng sống : muốn thành công xuất sắc, cần phải biết hành vi đúng lúc, đúng chỗ và được mọi người ủng hộ.

Điểm yếu từ kiểu luận cứ “nhị trùng”

Dù có nhiều điểm tích cực nêu trên, tuy nhiên, với tư duy phức hợp, triết lý Thiên – Địa – Nhân trong vấn đề phát triển bền vững, bên cạnh sự minh triết, cũng ẩn chứa một số khiếm khuyết. Có lẽ điểm yếu cơ bản của nó là kiểu luận cứ “nhị trùng”, cách nói nước đôi, hiểu thế nào cũng được. Điều đó dẫn đến khả năng giải thích thiên kiến, sai lệch các khái niệm và sự ly khai ngày càng tăng giữa lý thuyết và thực tế.

Giáo sư Đại học Thanh Hoa ( Trung Quốc ) Dương Chấn Ninh ( Nobel Vật lý 1957 ) cho rằng thuyết Thiên – Nhân hợp nhất trong Kinh Dịch đã phần nào đơn giản hóa sự vật khi không nhận thấy bên cạnh mặt giống hệt, còn xuất hiện phức tạp và sự độc lạ giữa vạn vật thiên nhiên và con người. Cũng vậy, khi lý giải thuyết âm khí và dương khí, người Trung Quốc đã nhấn mạnh vấn đề quá mức tính hòa giải mà chưa chú trọng mặt xung đột. Theo ông, những quan điểm đó đã ngưng trệ sự tăng trưởng canh tân của khoa học kỹ thuật Trung Quốc thời cận đại. Tất nhiên, quan điểm của Dương Chấn Ninh vẫn còn đang gây tranh cãi. Đồng Trọng Thư cũng làm cho thuyết Thiên – Nhân tương ứng trở thành xơ cứng. Ông nói đến sự hoạt động âm – dương, nhưng lại đi tới Kết luận một chiều mang tính bảo thủ : “ Trời không biến hóa, đạo cũng không biến hóa ” ( Thiên bất biến đạo diệc không bao giờ thay đổi ). Trong khi trước đó, sách Trung Dung giảng có phần thuyết phục hơn : “ Có hoạt động, ắt có chuyển biến, đã chuyển biến, tất phải chuyển hóa ” ( Động tắc biến, biến tắc hóa ). Thế giới đang không ngừng hoạt động, biến hóa. Thuyết Thiên – Địa – Nhân và sự tăng trưởng bền vững và kiên cố cũng nên nhận thức trong một toàn cảnh hoạt động và biến hóa như thế.

Exit mobile version