Trường Thiếu sinh quân (1956-1975) là một cơ sở đào tạo nam thiếu niên trên hai phương diện: Văn hóa Phổ thông và Cơ bản Quân sự của Việt Nam Cộng hòa. Trường được đặt trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tiêu chí của trường là đào tạo và huấn luyện cho lớp thiếu niên khi ra trường sẽ trở thành binh sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa hoặc trở thành những kỹ sư, bác sĩ, giáo viên v.v… để phục vụ trong quân đội. Tóm lại, đây là một cơ sở giáo dục cũng giống như những cơ sở giáo dục khác của Việt Nam Cộng hòa nhưng có phần huấn luyện quân sự nên được gọi là Học đường Quân sự.

Thánh Tổ : Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản .

Lịch sử hình thành.

Vào thời Pháp thuộc, triều đại Vua Thành Thái. Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ký nghị định ngày 21 tháng 11 năm 1899, cho hai đơn vị chức năng Quân đội Bảo hộ Pháp tại Thành Phố Hà Nội và TP HCM được xây dựng 2 Toán Thiếu sinh quân. [ 2 ] Nhân số Thiếu sinh quân vào thời kỳ này, mỗi Toán chỉ có 10 người. Từ đó tại những nơi khác những Toán Thiếu sinh quân lần lượt được xây dựng. Nhân số Thiếu sinh quân được thu nhận cũng được tăng lên từ 10 đến 20 rồi 50 cho mỗi Toán. Khi nhân số của từng nơi tăng lên thành số nhiều, những Toán được đổi thành Trường .

Ở Miền Bắc có các trường Thiếu sinh quân: Móng Cái, Núi Đèo, Đáp Cầu. Phủ Lạng Thương, Việt Trì, Hà Nội. Miền Trung có trường Thiếu sinh quân Huế (Ban đầu tọa lạc ở thành Mang Cá, sau dời vào Thành nội Huế). Miền Nam có các trường Thiếu sinh quân Đông Dương (tại Vũng Tàu), Thủ Dầu Một, Đa Kao (tại Gia Định), Thành Ô Ma[3] (Sài Gòn), Đà Lạt, Ban Mê Thuột và Mỹ Tho. Về phương pháp huấn luyện và điều hành của các Trường, đều rập theo khuôn mẫu của các Trường Thiếu sinh quân của Quân đội Pháp tại nước Pháp.

Vào thời gian đầu thập niên 1950 trên toàn Nước Ta có 7 trường TSQ phân phối như sau :

  1. – Trường TSQ Đệ nhất Quân khu ở Gia Định
  2. – Trường TSQ Đệ nhị Quân khu ở Huế
  3. – Trường TSQ Đệ tam Quân khu ở Hà Nội
  4. – Trường TSQ Đệ tứ Quân khu ở Ban Mê Thuột
  5. – Trường TSQ Móng Cái (Hải Ninh) dành cho sắc dân Nùng
  6. – Trường TSQ Đà Lạt của Quân đội Pháp
  7. – Trường TSQ Đông Dương của Quân đội Pháp ở Cap Saint Jacques (Vũng tàu)

Năm 1954, sau Hiệp định Geneve. Các trường Thiếu sinh quân miền Bắc được chuyển dời vào Nam sáp nhập vào trường Thiếu sinh quân Mỹ Tho. Tuy nhiên, quá trình này rất căng thẳng mệt mỏi vì Phái bộ Viện trợ Hoa Kỳ không có ngân khoản dự trù dành cho những trường Thiếu sinh quân, nên đã ý kiến đề nghị với Bộ Quốc phòng Nước Ta Cộng hòa cho giải tán toàn bộ sáu trường ở miền Nam, chỉ giữ lại trường Đông Dương ở Vũng Tàu. Nhưng vào giờ phút chót, Tổng thống Ngô Đình Diệm và Trung tướng Lê Văn Tỵ quyết định hành động duy trì những trường Thiếu sinh quân này .Cuối tháng 5 năm 1956, Tổng thống Diệm thông tư cho tướng Lê Văn Tỵ Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, tập trung chuyên sâu sáu trường hiện hữu ( gồm 1.350 học viên ) và chuyển dời tổng thể về Vũng Tàu nhập vào trường Đông Dương. Ngày 1 tháng 6 năm 1956, Thiếu sinh quân hợp nhất, đồng thời chính thức với tên tuổi ” Trường Thiếu sinh quân Nước Ta ” và trở thành một Quân trường có tầm vóc Quốc gia. Ngân khoản đài thọ cho trường Thiếu sinh quân được trích ra từ ngân khoản của quân đội .

Thanh kiếm bạc đặt trên nền màu xanh, đầu thanh kiếm chỉ thẳng lên ba ngôi sao sáng trên trời và dưới thanh kiếm có ba chữ Nhân, Trí, Dũng

Ý nghĩa trên phù hiệu như sau:
Thanh kiếm bạc:
Biểu dương tinh thần thượng võ, dũng cảm và uy quyền của người chỉ huy
Nền xanh:
Nền trời màu xanh, màu trẻ trung, hy vọng và đầy nhiệt huyết
-Ba chữ Nhân, Trí, Dũng:
Nhân: Là một đạo đức lớn bao trùm trên hết các đạo làm người
Trí: Là óc thông minh biết xét đoán người và việc
Dũng: Là sự can trường, đảm lược.
Tóm lại: Nhân, Trí, Dũng là sống làm sao cho đúng đạo làm người.

Trường thiếu sinh quân thu nhận những con trẻ của quân nhân thuộc Chủ lực quân, Địa phương quân, Nghĩa quân và Cảnh sát Quốc gia. Đặc biệt, ưu tiên cho những con của tử sĩ, thương phế binh và cựu quân nhân. Tuổi của những em khi thu nhận là từ 12 đến 15 ( trước năm 1956 nhận những em từ 10 tuổi ) .

Đào tạo và Huấn luyện.

Chương trình giáo dục Phổ thông, mở màn là hệ Trung học đệ nhất cấp : những lớp đệ thất, đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ, rồi đến Trung học đệ nhị cấp : những lớp đệ tam, đệ nhị, đệ nhất. [ 4 ] Học viên được thu nhận vào trường là những học viên đã có bằng Tiểu học. Cuối niên học lớp đệ tứ sẽ thi lấy bằng Trung học. Tiếp đến học lên đệ nhị cấp ; cuối niên học lớp đệ nhị thi lấy bằng Tú tài phần I, xong lớp đệ nhất thi lấy bằng Tú tài II. [ 5 ] Tuy nhiên, trường cũng linh động thu nhận những em ở tuổi 12 đang học lớp nhất của hệ Tiểu học, những em này học xong lớp nhất sẽ liên tục học lên Trung học đệ nhất cấp như những học viên khác .Vào niên học 1971 – 1972, trường Thiếu sinh quân có từ lớp 5 đến lớp 12 gồm hai mươi bảy lớp chia ra : một lớp 5, ba lớp 6, bốn lớp 7, bảy lớp 8, năm lớp 9, bốn lớp 10, hai lớp 11 và một lớp 12 .Trường dạy văn hóa truyền thống dựa theo chương trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Thành phần giáo viên gồm đa phần giáo chức đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm phải thi hành nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Các giáo chức này sau khi tốt nghiệp tại trường Sĩ quan Trừ bị Quận Thủ Đức được bổ trợ làm giáo viên cho trường Thiếu sinh quân. Vào những kỳ thi Tú tài I và II, những học viên thi đậu với tỷ suất rất cao .Các học viên học văn hóa truyền thống đại trà phổ thông đến năm 18 tuổi nếu không thi đậu bằng Tú tài I thì phải ra trường theo học những khóa hạ sĩ quan. Các học viên thi đậu Tú tài I sẽ được học đến năm 20 tuổi để thi lấy bằng Tú tài II, rồi theo học sĩ quan ở những trường Võ bị : Hải, Lục, Không quân hoặc những trường Đại học Y khoa, Luật khoa, Khoa học …

Chương trình rèn luyện Quân sự áp dụng cho các học viên là chương trình căn bản của người tân binh được chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn chuẩn bị: Đối với tuổi từ 12 đến 14
Giai đoạn 1: Đối với tuổi 15
Giai đoạn 2: Đối với tuổi 16
Giai đoạn 3: Đối với tuổi từ 17 trở lên[6]

Trong phần quân sự chiến lược, những học viên học tổng quát về quân phong, quân kỷ, cơ bản thao diễn, giải pháp, vũ khí, tổng quát … tuỳ theo mỗi tiến trình. Mục đích chuẩn bị sẵn sàng cho những học viên có một cơ bản vững vàng khi vào những trường sĩ quan hoặc hạ sĩ quan .
Song song với chương trình học văn hóa truyền thống và quân sự chiến lược, hàng tuần những học viên được huấn luyện và đào tạo Taekwondo xen kẽ với giờ huấn luyện và đào tạo sức khỏe thể chất. Các Võ sư Đại Hàn đảm trách hướng dẫn từ năm 1965 đến năm 1971. [ 7 ] Tính đến thời gian năm 1967, đã có 20 học viên đậu huyền đai đệ nhất đẳng. Các học viên này giúp những Võ sư Đại Hàn trong chương trình huấn luyện và đào tạo thường nhật .
Trường Thiếu sinh quân là một trong những Quân trường đẹp nhất của Nước Ta Cộng hòa. Trong khuôn viên của trường được thiết kế xây dựng với ba ngôi nhà lầu ba tầng tọa lạc trên một khu đất có diện tích quy hoạnh thoáng đãng. Bao gồm những phòng ăn, phòng ngủ dành cho học viên thật khang trang và không thiếu tiên nghi. Hội trường to lớn cùng nhiều giảng đường, phòng học, thư viện, câu lạc bộ, nhà tiếp tân. Trong trường có nhiều bãi và sân tập. Về phương diện Tôn giáo, trong trường có nhà thời thánh Công giáo và Niệm Phật đường .

Trong tổ chức Quân lực Việt Nam Cộng hòa có các quân trường:
Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt: Huấn luyện và đào tạo cho quân đội những sĩ quan hiện dịch, chuyên nghiệp.
Trường Võ khoa Thủ Đức: Huấn luyện và đào tạo cho quân đội những sĩ quan trừ bị.
Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế: Huấn luyện và đào tạo cho quân đội những sĩ quan, hạ sĩ quan hiện dịch và trừ bị.

Duy nhất chỉ có một quân trường đã đào tạo cho quân đội mà về sau họ đã trở thành những quân nhân ưu tú, trong đó có các hạ sĩ quan xuất sắc, các sĩ quan chỉ huy giỏi và nổi tiếng (không những là các sĩ quan cấp úy, cấp tá mà còn có cả các tướng lĩnh nữa). Đó là Trường Thiếu sinh quân VNCH.

Từ ngày Trường Thiếu sinh quân (TSQ) được chính thức thành lập (từ 1/6/1956 đến 30/4/1975). Trải qua 19 năm, có thể nói là thời kỳ “cực thịnh” của Thiếu sinh quân VNCH. Kể cả giai đoạn đầu, khi mới thành lập những Toán Thiếu sinh quân (1899) cho đến 1975. Trường Thiếu sinh quân đã đào tạo và cung ứng cho quân đội và Quốc gia 6.000 người con ưu tú. Những cán bộ quân sự chuyên nghiệp cho quân đội có trình độ văn hóa bậc Đại học, điển hình như sau:
-Tốt nghiệp từ trường Võ bị Quốc gia, với văn bằng Cử nhân Khoa học Thực nghiệm có: Cựu TSQ Đặng Phương Thành, cựu TSQ Nguyễn Ngọc Ánh[8] và một số các huynh đệ khác cùng khóa.
-Tốt nghiệp Sư phạm với văn bằng Đại học Sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, một số cựu TSQ được điều động trở về “trường mẹ” làm giáo viên văn hóa, tiếp tục hướng dẫn và đào tạo các lớp đàn em.
-Tốt nghiệp Đại học Luật khoa với văn bằng Cử nhân Luật. Được Bộ Ngoại giao tuyển dụng để trở thành những Tuỳ viên quân sự cho các Sứ quán VNCH tại các nước Đồng minh trên thế giới.
-Tốt nghiệp Đại học Quân y hoặc Đại học Y khoa với văn bằng Y khoa Bác sĩ. Được bổ dụng phục vụ trong các Quân, Dân y viện hoặc điều động phục vụ ngành quân y cho các đơn tác chiến, đơn vị yểm trợ của quân đội.

Trước ngày 30/4/1975, còn có những cựu TSQ giữ chức vụ Tỉnh trưởng, đó là cựu TSQ Hồ Ngọc Cẩn ( Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Chương Thiện ), cựu TSQ Nguyễn Ngọc Ánh ( Nguyên Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Tuy ) …

Sĩ quan VNCH xuất thân từ Thiếu sinh quân.

Trường Thiếu sinh quân trong suốt quy trình 19 năm chính thức sống sót, đã triển khai xong sứ vụ giảng dạy cho Quốc gia nhiều nhân tài và đáp ứng cho Quân lực VNCH rất nhiều quân nhân xuất sắc .Cũng như những Quân trường của Quân lực trên toàn VNCH, trường Thiếu sinh quân đã chấm hết trách nhiệm vào ngày xảy ra biến cố 30/4/1975 .

Chỉ huy trưởng qua những thời kỳ.

  1. ^

    Chữ viết tắt của tiếng Pháp: Ancient Enfant de Troupe.

  2. ^ Còn gọi là Đội Thiếu sinh quân .
  3. ^ Về sau là nơi đặt Tổng nha Cảnh sát Quốc gia .
  4. ^

    Năm 1970 Bộ Giáo dục Quốc gia VNCH đổi tên gọi các lớp thuộc hệ Trung học đệ nhất cấp (nay là Trung học Cơ sở) thành lớp 6, 7, 8 và 9. Qua năm 1971 đổi tên các lớp thuộc hệ Trung học đệ nhị cấp (nay là Trung học Phổ thông) thành lớp 10, 11 và 12.

  5. ^ Trường hợp những học viên thi không đậu Tú tài phần II, sẽ được gửi đi thụ huấn ở trường Võ khoa Quận Thủ Đức. Tuy nhiên, khi ra trường dù cũng mang cấp bậc Chuẩn úy như những tân sĩ quan trừ bị khác nhưng được hưởng quy định sĩ quan hiện dịch. Vì Trường Thiếu sinh quân được theo quy định đào tạo và giảng dạy giống như những Trường Võ bị. Do đó, những cựu TSQ khi Giao hàng trong quân đội, dù ở cấp bậc nào vẫn là một quân nhân chuyên nghiệp .
  6. ^ Các quá trình : sẵn sàng chuẩn bị, 1 và 2 mỗi năm những học viên phải học 128 giờ, riêng quy trình tiến độ 3 số giờ học sẽ tăng lên tuỳ thuộc vào những bài học kinh nghiệm quân sự chiến lược được phổ cập theo từng thời gian .
  7. ^

    Trường Thiếu sinh quân đã đào tạo được:
    -48 huyền đai đệ nhất đẳng
    -1.616 đai nâu từ cấp IV đến cấp I
    -237 đai xanh của môn võ Thái cực đạo.

  8. ^ Trung tá Nguyễn Ngọc Ánh sinh năm 1939 .
  9. ^ Trường Võ bị Địa phương Cap Saint Jacques còn gọi là Trường Võ bị Địa phương Nam Việt, tọa lạc ở Vũng Tàu
  10. ^ Đại tá Phan Như Hiên, sinh năm 1932 tại Chợ Lớn .
  11. ^ Xuất thân từ trường Sĩ quan .
  12. ^

    Cấp bậc khi nhậm chức.

  13. ^ Đại tá Nguyễn văn Bích, sinh năm 1926 tại Bắc Giang .
  14. ^ Đại tá Nguyễn Văn Ưng, sinh năm 1918 tại Thủ Dầu Một .
  15. ^ Đại tá Hồ Nhựt Quan, sinh năm 1928 tại Long An. Là con trai của nhà giáo yêu nước Hồ Văn Ngà

Tham khảo và Liên kết.

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
  • Trường Thiếu sinh quân Việt Nam Cộng hòa – Hồ Đắc Huân
  • Lược sử Thiếu sinh quân Việt Nam Cộng hòa – Nguyễn Ngọc Ánh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *