TIẾNG PHẠN TRONG PHẬT GIÁO
Lê Tự Hỷ
Bạn đang đọc: Tiếng Phạn Trong Phật Giáo
I- Ngôn Ngữ Trong Kinh Phật :
Ngày nay tất cả chúng ta biết các tác phẩm Phật giao được kết tập trong ít nhất là 6 Đại Tạng Kinh(« 大藏經 » Tripitaka, The Great Treasury of Buddhist Canon ») như sau :
Ngày naybiết cácPhật giao đượctronglà 6 ( « 大藏經 » Tripitaka, The Great Treasury of Buddhist Canon » ) như sau :1. Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Vạn Tân Toản Tục Tạng Kinh ( 大正新脩大藏經, 卍新纂續藏經, Taisho Tripitaka và Successive Tripitaka ) 2. Càn Long Đại Tạng Kinh ( 乾隆大藏經, Qianlong Tripitaka ) 3. Vĩnh Lạc Bắc Tạng ( 永樂北藏, Yongle Tripitaka ) ( 1 ) 4. Pāli Đại Tạng Kinh ( 巴利大藏經, Pali Tripitaka ) 5. Phạn Văn Đại Tạng Kinh ( 梵文大藏經, Sanskrit Tripitaka ) 6. Tây Tạng Văn Đại Tạng Kinh ( Tibetan Tripitaka ) Thật ra những Đại Tang Kinh như Đại Chính Tân Tu, Càn Long, Vĩnh Lạc Bắc Tạng và Tây Tạng Đại Tạng Kinh đều được dịch ra từ những kinh bằng tiếng Phạn. Vậy mỗi khi đọc kinh Phật bằng những thứ tiếng như Hán, Tây Tạng, Nhật Bản, Triều Tiên, Nước Ta, Anh, … mà cảm thấy khó hiểu hay hoài nghi nghĩa lý thì hoàn toàn có thể truy cứu câu văn gốc từ bản tiếng Phạn để tìm hiểu và khám phá ý nghĩa đích thực. Điều đáng tiếc là toan bộ kinh sách Phật giáo bằng tiếng Phạn ở Ấn Độ đã bị tiêu diệt vao thế kỷ 14 sau cuộc xâm lăng của Hồi giáo vào Ấn Độ. Tiếng Phạn ( Sanskrit ) có tên nguyên tiếng Phạn là saṃskṛtā vāk hay saṃskṛta, nghĩa là ngôn từ “ tuyệt vời ” hay “ thanh nhã ” hay “ hiến dâng ”, luôn luôn được xem là ngôn từ “ hạng sang ” dành cho những nghi thức những tôn giáo : đạo Hindu, đạo Phật và đạo Jaina, và cho giới tinh hoa của Ấn Độ.
Chúng ta cũng được biết là tiếng Phạn gắn liền với sự hình thành các kinh Vệ Đà của đạo Hindu cho nên người Ấn độ quan niệm rằng tiếng Phạn là ngôn ngữ do thần Śiva tạo ra và truyền xuống cho con người. Vì là do thần Śiva tạo ra, nên chữ viết của tiếng Phạn được gọi là Nāgarī, nghĩa là chữ viết miền đô thị hay Devanāgarī, nghĩa là chữ viết miền đô thị của Thiên
thần.
Hệ quả của niềm tin ấy là người Ấn Độ cho rằng việc đọc
kinh và đặc biệt là các thần chú bằng tiếng Phạn sẽ dễ có sự cảm thông, trợ giúp, cứu độ từ Phạm Thiên và các Thiên thần trong truyền thống đạo Hindu.
Vì Phật giáo phát xuất từ Ấn Độ nên niềm tin nầy cũng thấy có trong kinh sách của Phật giáo. Chẳng hạn, trong Đại Bát Niết Bàn Kinh 8 và 26, hay trong Đại Đường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang, … đều có sáng tạo độc đáo nầy. Nhưng trong quy trình tiến độ đầu khi Phật giáo mới truyền sang Trung Quốc, do lòng tự tôn dân tộc bản địa của người Trung Quốc, tiếng Phạn bị gọi là Hồ ngữ là tiếng của rợ Hồ, mặc dầu ngài Cưu Ma La Thập đã dịch những Kinh Phật bằng tiêng Phạn ra tiếng Trung Quốc vào năm 402 sau dương lịch. Cho đến thời ngài Ngạn Tôn ( 557 – 610 ), một tác giả lớn của Phật Giáo Trung Quốc, thì tiếng Phạn mới chính thức được gọi là Phạn ngữ ( 2 ) Từ đó về sau, tiếng Phạn trong kinh Phật được những nhà sư Trung Quốc xem thiêng liêng như người Ấn đã từng ý niệm. Chẳng hạn câu tiếng Phạn mở màn cho mọi Kinh Phật : Evaṃ mayā śrutam nghĩa là “ Tôi nghe như vầy ” ( Như thị ngã văn ) đã được giới Phật Giáo Trung Quốc tôn kính với câu : “ Thử phạn tự giả cắng tam thế nhi thường hằng biến thập phương dĩ bình đẳng. Học chi thư chi định đắc thương nhậm chi Phật trí, quán chi tụng chi tất chứng bất hoại chi pháp thân. Chư giáo chi căn bổn, chư tự chi phụ mẫu, kỳ tại tư hồ. ” Nghĩa là : ” Mấy chữ Phạn nầy mãi thường hằng trong ba cõi, bình đẳng khắp mười phương. Ai học nó, viết nó nhất định sẽ đạt được Phật trí hiện tiền, ai quán nó, tụng nó nhất định sẽ chứng được pháp thân bất hoại. Nó là căn bổn của tổng thể giáo pháp, là cha mẹ của toàn bộ văn tự, toàn bộ đều ở đây cả “ ( 3 ). Thời đức Phật Thích Ca tại thế ( 563 – 483 trước dương lịch ) thì Phật pháp được giảng giải và trao truyền bằng lời nói, chứ chưa được ghi lại dưới dạng văn tự. Trong lần kết tập Kinh điển lần thứ nhất ( khoảng chừng 7 ngày sau khi đức Phật Thích Ca nhập diệt ), ngài Ᾱnanda được mời đọc tụng thuộc lòng mỗi câu Kinh 80 lần để toàn thể hội chúng tụng theo cho đến thuộc nằm lòng. Trong lần kết tập Kinh điển thứ hai ( khoảng chừng 137 năm sau khi đức Phật nhập diệt ), kinh Phật cũng chỉ được đọc tụng thuộc lòng chứ chưa ghi lại thành văn bản. Trong lần kết tập thứ ba, theo lệnh của vua A Dục ( Aśoka : 268 – 233 tr. dl ), Kinh Phật mới được ghi lại thành văn bản trên những miếng đồng để tàng trữ. Vào thời kỳ nầy thì tiếng Phạn đã được Pāṇini và những vị tiền bối chuẩn hóa thành tiếng Phạn mà người phương Tây gọi là tiếng Phạn Cổ điển ( Classical Sanskrit ) để phân biệt với tiếng Phạn thời trước đó trong kinh Vệ Đà, gọi là Vedic.
Các mẫu tự Devanāgarī (Devanagari Script) dùng để viết tiếng Phạn và một số ngôn ngữ Ấn Độ khác đã tiến hóa từ các mẫu tự Brahmi (Brahmi script) đã có mặt vào khoảng năm 300 trước dương lịch.
Những câu khắc trên các trụ đá theo lệnh của Hoàng đế Aśoka vào khoảng năm 300 trước dương lịch đều bằng ký tự Brahmi. Nhưng nguồn gốc đích thực của chữ viết ở Ấn Độ thì không được xác nhận với bất kỳ mức độ chắc chắn nào mặc dù các học giả tin rằng điểm xuất phát là các ký tự Brahmi như đã dùng trong các câu khắc của Hoàng đế Aśoka.
Ký tự Brahmi tương thích với mạng lưới hệ thống viết chữ theo những âm ( syllabic writing system : mỗi ký tự hoặc là một phụ âm hay một âm gồm phụ âm với nguyên âm a ) và đã được dùng nhiều hơn trong việc viết chữ Prakit, là ngôn từ được nói bởi những người dân thường ( giới tầm trung ). Nhưng ký tự Brahmi đã trải qua những đổi khác rất nhiều, hình dạng độc lạ đáng kể qua thời hạn, mặc dầu tập hợp những akṣara ( mẫu âm ) vẫn được giữ nguyên cho những nguyên âm và phụ âm cơ bản của tiếng Phạn. Từ khoảng chừng năm 200 sau dương lịch về sau, Ấn Độ được trị vì bởi những vua theo đạo Hindu, và sự phổ cập thông tin qua việc khắc chữ trên đá được liên tục. Nhưng do sự biến hóa rất nhiều của những ký tự và những chỉ dụ hay sắc lệnh của nhà vua trên đá bị hủy hoại qua thời hạn, khiến cho chính người Ấn Độ đương đại cũng không hề hiểu được nội dung những câu khắc ấy. Những học giả phương Tây đã giúp Ấn Độ xử lý được yếu tố nầy. Năm 1838, học giả James Prinsep tò mò ra ý nghĩa của những câu Brahmi khắc trên đá từ thời Hoàng đế Aśoka. Về sau với sự giúp sức của nhiều học giả khác, đặc biệt quan trọng là Georg Buhler đã thiết lập được mối liên hệ vững chãi giữa ngôn từ và những ký tự. Từ đó người ta mày mò ra được quy trình tăng trưởng của mẫu tự từ Brahmi vào khoảng chừng năm 300 trước dương lịch cho đến Devanāgarī đương đại như sau :
Các mẫu tự Devanāgarī mà quốc tế đang dùng thời nay đã được định hình vào khoảng chừng năm 1700 sau dương lịch. Các sách tiếng Phạn được in sau năm 1900 có cùng những mẫu tự Devanāgarī như ngày này, còn những sách in trước năm 1900 hoàn toàn có thể chứa một khác dạng khác của 1 số ít akṣara. ( 4 ) Thí dụ : Bát Nhã Tâm Kinh được viết bằng tiếng Phạn trên 2 lá bối được tàng trữ tại chùa Hōryū-ji ở Nhật Bản với ký tự thời thế kỷ thứ 7 ( 5 ) :
II- Bốn Ngôn Ngữ Lưu Giữ Kinh Phật Thời Xưa:
Theo Giáo sư Franklin Edgerton (6), các văn bản Phật giáo đã được lưu giữ trong ít nhất là 4 ngôn ngữ Indic (7)
1. Phạn Cổ Điển (Classical Sanskrit) : Tiếng Phạn chuẩn tức tiếng
Phạn đã được chuẩn hóa bởi Pāṇini, phân biệt với tiếng Phạn trong kinh Vệ Đà là Vedic
2. Pāli, một ngôn ngữ Indic miền Trung Ấn (Middle Indic). Đây là ngôn ngữ chuyển tải phần lớn nhất của tác phẩm Phật giáo mà ngày nay được bảo lưu trong bất kỳ ngôn ngữ Indic nào, đó là ngôn ngữ thiêng liêng của Phật Giáo Miền Nam (Nam truyền, Nam tông, Nguyên thủy, Tiểu thừa). Ngày nay, hầu hết các học giả đều tin rằng Pāli
chủ yếu là dựa trên một phương ngữ Middle Indic thuộc miền Tây hay Trung tây.
3. Prakrit Dharmapada : là phương ngữ dựa trên một Middle Indic miền Tây bắc mà Senart trong bài viết về văn bản Dutreuil de Rhins đăng trong Jas. IX.12 (1898), trang 193ff gọi là Prakrit Dharmapada.
4. Buddhist Hybrid Sanskrit : Ngôn ngữ mà Giáo sư Franklin Edgerton goi là Buddhist Hybrid Sanskrit (viết tắt là BHS). Hầu
hết các tác phẩm Phật Giáo Bắc Ấn Độ (Bắc truyền, Bắc tông, Đại thừa) được viết bằng BHS. Chẳng hạn, toàn bộ các kinh trong bộ Đại Bát Nhã được viết bằng BHS. Ngôn ngữ nầy chủ yếu dựa trên một phương ngữ Middle Indic cổ xưa mà vẫn chưa xác định rõ, đồng thời chứa nhiều tiếng địa phương của các Middle Indic khác. Nhưng BHS cũng chịu ảnh hưởng sâu xa bởi tiếng Phạn khiến cho nhiều tác phẩm viết bằng BHS vẫn được gọi một cách đơn giản là “tiếng Phạn”.
Giáo sư Franklin Edgerton, trong
bài viết “ Tiếng Prakrit Làm Nền Tảng Cho Buddhistic Hybrid Sanskrit (8), cho biết rằng những tác giả Phật giáo sử dụng tiếng Phạn chuẩn hóa (
Tiếng Phạn Cổ điển = Classical Sanskrit, hay Brahmanical Sanskrit, do Pāṇini và các vị tiền bối chuẩn hóa ) chỉ là một số nhỏ. Nhóm nầy dường như là đã được đào tạo trong truyền thống tăng lữ Bà La Môn chính thống (orthodox Brahmanical training) vào thời trẻ nên họ rành tiếng Phạn chuẩn, rồi sau họ mới chuyển qua đạo Phật, chẳng hạn như Aśvaghoṣa (Mã Minh), do đó họ dùng tiếng Phạn chuẩn hóa để viết kinh sách Phật giáo. Đa số tác phẩm Phật giáo viết bằng tiếng Phạn, chính là bằng Buddhist Hybrid Sanskrit. Vì vậy Buddhist Hybrit Sanskrit cũng còn gọi là Tiếng Phạn Phật Giáo (Buddhist Sanskrit) hay Tiếng Phạn Hỗn Hợp (Mixed Sanskrit).
Các tác phẩm Phật giáo viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit xuất hiện sau khi Pāṇini đã hoàn thành việc chuẩn hóa tiếng Phạn vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 trước dương lịch. Sau công trình của Pāṇini thì tiếng Phạn đã trở thành là ngôn ngữ vượt trội trong văn học và triết học ở Ấn Độ. Cho nên các nhà sư Phật giáo bắt đầu làm thích nghi ngôn ngữ họ đã dùng (tiếng địa phương của họ) với tiếng Phạn trong khi vẫn còn ảnh hưởng của truyền thống ngôn ngữ thoát thai từ một dạng tiếng Prakrit dùng chính thức trong tôn giáo (protocanonical Prakit) của
truyền thống truyền khẩu vào thời kỳ đầu của việc trao truyền Phật pháp. Có lẽ chính vì dưới sự ảnh hưởng đa phương ngữ như thế, mà các tác
phẩm Phật giáo được viết bằng Buddhist Hybrid Sanskrit đã ra đời.
Trong khi có nhiều lý thuyết khá khác biệt nhau về mối liên hệ của
Buddhist Hybrid Sanskrit với Pāli, thì điều chắc chắn là Pāli thì gần với ngôn ngữ nầy hơn là Sanskrit (9). Theo K.R. Norman, thì Pāli cũng nên được xem như một dạng của Buddhist Hybrid Sanskrit (10). Franklin Edgerton lại cho rằng Pāli về cơ bản là một loại tiếng Prakit (11). Ở những nơi mà BHS khác biệt với Sanskrit thì nó lại gần giống hay y hệt như Pāli. Tuy nhiên, hầu hết những tác phẩm viết bằng BHS hiện còn tới nay thì nguyên thủy được viết bằng BHS chứ không phải được viết lại hay dịch lại từ các tác phẩm đã viết bằng Pāli hay các ngôn ngữ khác (12).
III. Có Ngôn Ngữ Duy Nhất Ban Đầu Cho Phật Giáo Không?
Đây là câu hỏi mê hoặc so với những nhà nghiên cứu.
III.1 Tinh Thần Tự Do Phóng Khoáng Của Đức Phật Trong Việc Sử Dụng Ngôn Ngữ Để Hoằng Pháp.
Trong Tạng Kinh Pāli (13) có một đoạn nổi tiếng, được tóm tắt như sau :
“ Có hai nhà sư là anh em ruột, vốn xuất thân từ giai cấp quý tộc (brahman) với ngôn ngữ và cách phát âm rất tinh tế (tiếng Phạn chuẩn), đến trước đức Phật và thưa : Bạch Đức Thế Tôn, ở đây có nhiều nhà sư từ nhiều giai cấp xã hội và nhiều địa phương khác nhau đang làm hủy hoại lời đức Phật dạy bằng cách lập lại lời của Đức Thế Tôn theo ngôn ngữ địa
phương của họ; hãy cho phép chúng con dịch tất cả lời dạy của Thế Tôn ra tiếng Phạn Vệ Đà.
Đức Phật đã bác bỏ ý kiến đề nghị đó bằng cách dạy rằng : “ Hởi những nam tử bị lừa dối kia, làm thế nào những ông hoàn toàn có thể nói điều đó ? Điều đó sẽ không hề quy đổi được cái đã không hề quy đổi … ”. Và ngài giảng một bài pháp rồi ra lệnh cho tổng thể những nhà sư : “ Các ông đừng có dịch những lời Phật dạy ra tiếng Phạn Vệ đà. Ai làm như thế là phạm tội. Hởi những tăng sĩ, ta được cho phép những ông học lời Phật dạy theo ngôn từ địa phương của mỗi người. ” Điều nầy chứng tỏ bản thân Đức Phật và những đệ tử bắt đầu của ngài chỉ dùng tiếng địa phương đại trà phổ thông làm phương tiện đi lại giảng dạy Phật pháp và khước từ dùng tiếng Phạn Vệ đà ( Vedic ) hay tiếng Phạn chuẩn được tôn kính của giới quý tộc. Trong Luật tạng của phái bộ Mahīśāsaka, được dịch ra tiếng Trung Quốc bởi Buddhajīva năm 423 – 424 sau dương lịch, kể câu truyện hơi khác một chút ít là hai đồng đội nhà sư vốn xuất thân giới quý tộc Bà La Môn khi nghe những nhà sư đọc tụng kinh “ không đúng chuẩn ” thì chế nhạo họ bằng cách nói rằng : “ Mặc dù họ đã trở thành nhà sư từ lâu, nhưng họ đọc tụng kinh theo cách nầy ! không biết những từ thuộc nam tính mạnh mẽ hay êm ả dịu dàng, số ít hay số nhiều, cũng không biết động từ ở thì hiện tại, quá khứ hay tương lai, cũng không biết thuộc âm tiết ngắn hay dài, cũng không biết nhịp thơ với âm nhẹ hay nặng ”. Khi hai người nầy đến khẩn khoản cầu xin đức Phật cho kiểm soát và điều chỉnh, ngài ra lệnh rằng : “ kinh cần được đọc theo giọng âm của từng vùng, nhưng phải thận trọng không để làm rơi lệch ý nghĩa. Điều cấm kỵ là biến lời Phật dạy thành ngôn từ ngoại đạo “ ( 14 ).
Trong Luật tạng của phái bộ Dharmagupta gần với Pāli tạng hơn cũng nêu câu chuyên trên, nhưng thay vì hai nhà sư thì nói chỉ có một nhà sư. Vị sư nầy phàn nàn với đức Phật rằng : “ Các nhà sư thuộc các giai cấp khác nhau và mang các tên khác nhau đã đang làm hỏng các kinh Phật” và đề nghị :” soạn lại
các kinh theo ngôn ngữ tốt của thế giới “, thì hiển nhiên là Vedic hay tiếng Phạn chuẩn, ngôn ngữ của văn hóa. Trong việc phản bác ý tưởng đó,
đức Phật cho rằng việc dùng “ngôn ngữ của người ngoại đạo” sẽ làm hủy hoại các kinh Phật, và ngài nói :
“ Được phép đọc tụng và học các kinh Phật bằng lời giải thích theo các ngôn ngữ phổ thông của các vùng khác nhau” (15).
Còn trong bản dịch ra chữ Hán ( trong khoảng chừng năm 350 – 431 sau dương lịch ) của văn bản đã thất lạc Vinayamātṛkā ( Tóm lược Giới Luật, Summary of the Discipline ), thì câu truyện là hai nhà sư có nguồn gốc quý tộc Bà La Môn bạch với đức Phật rằng : “ Trong số những đệ tử của Đức Thế Tôn có những người thuộc những giai cấp xã hội khác nhau, thuộc những xứ sở khác nhau, thuộc quyền quản lý của Q. hay huyện khác nhau. Giọng đọc của họ không giống nhau. Vì ngôn từ của họ là không đúng đắn, tổng thể họ đang hủy hoại ý nghĩa đích thực của lời Phật dạy. ” Hai vị sư nầy muốn chỉnh sửa và biên tập và kiểm soát và điều chỉnh lại những kinh sách theo quy luật được chấp thuận đồng ý trong ngôn từ Vệ đà. Đức Phật đáp : “ Trong tôn giáo của ta, ngôn từ tinh xảo hoa mỹ là không thiết yếu. Tất cả những gì ta muốn là ý nghĩa và lý luận phải đúng. Các ông phải thuyết pháp theo cách phát âm mà dân chúng hiểu được. Vì vậy, điều đúng đắn là sử dụng ngôn từ tùy theo xứ sở mình thuyết pháp. ” ( 16 ) Theo ý thức nầy của đức Phật thì người ViệtNamta cần phải được nghe giảng pháp và học kinh Phật bằng tiếng Việt. Điều nầy cũng đã được Hòa thượng tôn sư Trúc Lâm triển khai từ những năm 60 của thế kỷ 20, ví dụ điển hình, ngài dùng câu Việt hóa :
“Nammô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni”
thay cho câu thuần Hán : “ Nammô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ”. Hơn nữa, những vị tăng, ni mà có duyên được mời hoằng pháp tại nơi có dân tộc bản địa ít người thì nên học ngôn từ của dân tộc bản địa ấy để giảng pháp, mới mong việc hoằng pháp dễ thành công xuất sắc được.
III.2 Ngôn Ngữ Của Đức Phật Thích Ca:
Bản thân đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một người miền Đông Ấn Độ, mái ấm gia đình ngài sống ở Kapilavastu ( Ca Tì La Vệ ), ở miền hướng đông bắc Kośala ( Câu Tát La, Oudh ). Các cuộc du hóa của ngài có vẻ như đa phần bị số lượng giới hạn ở phía tây bởi Śrāvastī ( Xá Vệ ) và về phía đông bởi Rājagṛha ( Vương Xá ), Thành Phố Hà Nội của Magadha ( Ma Kiệt Đà ) miền nam Bihar của sông Ganges ). Tất cả những vùng nầy có ngôn từ thuộc về một ngôn từ mà ngày này gọi là Bihari tân tiến ( ngoại trừ Śrāvastī có lẽ rằng chỉ cùng gần với ngôn từ Eastern Hindi ). Không hoài nghi gì là hầu hết đệ tử của đức Phật thuộc cùng vùng tổng quát ấy, và tất cả chúng ta hoàn toàn có thể cho rằng, trong thời đức Phật còn tại thế, những bài giảng của ngài, it nhất, đa phần được học thuộc lòng theo những phương ngữ miền đông. Tuy vậy, không ai biết đúng mực phương ngữ nào đức Phật đã dùng để giảng pháp ; và có vẻ như rõ ràng là những phương ngữ của những đệ tử của ngài độc lạ nhau một cách cảm nhận được. Tuy nhiên những nhà nghiên cứu Lüders và Hiän-lin Dschi ( 17 ) tin rằng “ Old Ardha-Māgadhī “, một dạng cổ của Ardha – Māgadhī là ngôn từ mẹ đẻ của Đức Phật và cũng là ngôn từ chính thống của Phật giáo trong dạng cổ xưa nhất. Trong khi đó thì Edgerton cho rằng quan điểm của Lin Li-kouang ( 18 ) là hài hòa và hợp lý, có tính thuyết phục hơn. Ông ấy hỏi rằng : ” Tuy nhiên, hoàn toàn có thể nào đúng là những Phật tử đã từng dùng một ngôn từ duy nhất, ngay trong thời kỳ cổ xưa nhất ? Dưa trên ý thức tự do và dễ bị ảnh hưởng tác động mà những Phật tử tỏ ra trong việc sử dụng ngôn từ, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể nêu lên câu hỏi là ngay từ thời kỳ đầu của Phật giáo ( tối thiểu là trong thời kỳ tại thế của đức Phật ), phải chăng đã không có nhiều ngôn từ được dùng trong Phật giáo, mà Māgadhī chỉ là một trong những ngôn từ ấy ? Tại sao tất cả chúng ta không nghĩ rằng những TT Phật giáo cổ xưa khác như Vaiśālī ( Vệ Xá Li ), Kauśāmbī ( Câu Thướng Di, Kiều Thướng Di ), Mathurā ( Ma Du La ), Ujjayinī, và những nơi khác cũng có phương ngữ đặc biệt quan trọng riêng đã được dùng như thể những ngôn từ thiêng liêng cho những hội đồng dân cư đã được thiết lập tại những TT ấy, vậy theo nguyên tắc mà đức Phật đã chỉ ra thì ngôn từ để giảng Phật pháp cho những hội đồng Phật giáo ấy phải nên là những ngôn từ địa phương ấy chứ ?. Với tâm lý ấy, Edgerton cho rằng những ngôn từ như Pali, BHS, và Prakrit Dharmapada ( Prakrit trong bản chép Dutreuil de Rhins ) tổng thể đều phát xuất từ những ngôn từ địa phương ở những nơi mà những hội đồng Phật giáo được thiết lập như đã nói trên. Vậy tối thiểu là 3 ngôn từ nầy và hoàn toàn có thể còn nhiều ngôn từ địa phương hơn nữa đã được xem như những ngôn từ được dùng trong việc hoằng pháp ngay vào thời kỳ đầu của Phật giáo. Edgerton cho rằng phần đông tổng thể những tác phẩm Phật giáo bằng tiếng Phạn đều thuộc về một truyền thống lịch sử ngôn từ hợp nhất thoáng đãng. Ngôn ngữ của những tác phẩm nầy tách biệt khỏi truyền thống cuội nguồn tiếng Phạn chuẩn, và ở đầu cuối lùi về những dạng Phạn bán chuẩn ( semi-Sanskritized form ) của ngôn từ Prakrit chính thống dùng trong tôn giáo ( protocanonical Prakit ). Các từ vựng Phật giáo đặc biệt quan trọng trong BHS là vật chứng hiển nhiên rằng BHS là phần phụ thuộc vào một truyền thống lịch sử ngôn từ riêng không liên quan gì đến nhau, trọn vẹn tách biệt khỏi tiếng Phạn chuẩn ( 19 ). Ngoài ra, mỗi đoạn trong bài viết Phật giáo bằng BHS đều chứa những từ, và những cách diễn đạt ý tưởng sáng tạo mà dù không nhằm mục đích vào một đối tượng người dùng chính thức nào, vẫn không khi nào được dùng bởi những tác giả phi Phật giáo ( 20 ). Nhiều từ tiếng Phạn hay cách dùng đặc biệt quan trọng của những từ tiếng Phạn được ghi nhận chỉ có trong những tác phẩm Phật giáo. Một số lớn những tư nầy lại có trong tác phẩm Phật giáo bằng Pāli. Điều nầy khiến cho Edgerton nghĩ rằng có vẻ như hầu hết những từ này thuộc về những từ vựng đặc biệt quan trọng của ngôn từ Prakrit trong sử dụng chính thống cho Phật giáo ( 21 ). Tương tự như Buddhist Hybrid Sanskrit, những từ ngừ và văn phong đặc biệt quan trọng trong tiếng Trung Quốc được dùng để dịch kinh sách Phật giáo ra tiếng Trung Quốc được gọi là Buddhist Hybrid Chinese, và tương tự như trong Anh ngữ có Buddhist Hybrid English. Điều đáng tiếc là sau khi Phật giáo bi tiêu diệt tại Ấn Độ vào thế kỷ thứ 14 bởi quân người Hồi giáo thì hàng loạt kinh sách tài liệu Phật giáo bị tiêu diệt tại Ấn Độ, tất yếu trong đó gồm hàng loạt tài liệu Phật giáo bằng tiếng Phạn. Do đó tài liệu lịch sử vẻ vang có tính mạng lưới hệ thống về những tác phẩm Phật giáo bằng tiếng Phạn hiện vẫn chưa sẵn có. Có thể nói cuốn sách Lịch Sử Văn Học Phật Giáo Trong Phạn Ngữ của J.K. Nariman xuất bản năm 1992 ( 22 ) đã phân phối một phần sự thiếu vắng thông tin trên. Trong sách nầy J.K. Nariman lý giải rõ những sự kiện lịch sử dân tộc gồm có những tác phẩm của Aśvaghoṣa ( Mã Minh ), Nāgārjuna ( Long Thọ ), Āryadeva ( Thánh Thiên, Đề Bà ), Asaṅga ( Vô Trước ), Vasubandhu ( Thế Thân ) và những học giả Phật học khác thời cổ đại và trung đại. Tuy nhiên, những bản viết có giá trị gốc thích đáng bằng tiếng Phạn về Phật giáo vẫn còn hoàn toàn có thể sống sót ở Nepal, Kashmir, Trung Á, Tây Tạng và ở một số ít nơi khác. Hiện nay, việc xác lập vị trí và tìm lại những bản viết nầy không hề nói là đã hoàn tất, và những mày mò mới, đầy mê hoặc vẫn liên tục được triển khai. Trong bài thuyết trình : “ A Never-ending Story – On the Rediscovery of Buddhist Sanskrit Texts ”, “ Câu Chuyện Không Bao Giờ Kết Thúc – Việc Khám Phá Trở Lại Các Văn Bản Phật Giáo Bằng Tiếng Phạn ” do Trung Tâm Nghiên Cứu Phât Giáo tại Đại Học Berkeley ( Mỹ ) tổ chức triển khai ngày 15 tháng 3 năm 2005, Giáo Sư Michael Hahn cho rằng việc Phục hồi lại một sưu tập những tác phẩm theo thể văn kể chuyện về Phật giáo sẽ minh họa việc những tò mò mới hoàn toàn có thể giúp Phục hồi lại được những tác phẩm Phật giáo có tầm quan trong về giá trị nguyên thủy mà đã được tin rằng bị mất trong nguyên bản tiếng Phạn không hề truy cứu lại được.
IV. Tiếng Phạn Với Phật Giáo ViệtNam:
Mặc dầu trong qua khứ cũng như hiện tại, đại đa số giới Phật tử Việt Nam hầu như chỉ biết đến Phật pháp qua kinh sách chữ Hán, nhưng thật ra có thể nói rằng Phật pháp được truyền đến nước ta bằng tiếng Phạn trước tiếng Trung Quốc.
Thật vậy, vấn đề người Việt Nam chúng ta tiếp cận với Phật
pháp qua tiếng Phạn khá sớm có thể được chỉ ra trong các tình huống sau
đây (23):
1. Nhà sư Phật Quang : theo sử liệu thì Phật giáo được truyền vào nước ta đầu tiên dưới thời Hùng Vương bởi nhà sư Ấn Độ tên Phật Quang. Ngài truyền Phật pháp cho Chữ Đồng Tử tại núi Quỳnh Viên ở cửa Sốt thuộc Hà Tĩnh. Nhà sư nầy chắc chắn là người Ấn Độ,
và Phật pháp ngài truyền tất nhiên qua tiếng Phạn. Và cũng tất nhiên là
vào thời kỳ Chữ Đồng Tử chưa hề có sách Phật giáo bằng chữ Hán ở nước ta.
2. Nhà sư Khâu Đà La được biết rõ là người nước Tây Thiên
Trúc vào khoảng năm 189 sau dương lịch đã đến truyền Phập pháp cho hai cha con Tu Định và Man Nương và lập nên hệ thống Tứ Pháp (Phật Pháp Vân,
Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi, Phật Pháp Điện) tại chùa Pháp Vân còn lưu lai đến ngày nay.(24)
3. Nhà sư Khương Tăng Hội : Trong thế kỷ thứ 3 sau dl, có Khương Tăng Hội sinh ra, lớn lên ở nước ta với mẹ người Viêt, cha người thuộc miền Đông bắc Ân Độ. Nhà sư Khương Tăng Hôị,
thông thạo chữ Hán lẫn tiếng Phạn. Ngài đã chú giái kinh An Ban Thủ Ý. Ngài đã qua Trung Quốc truyền Phât pháp và viên tịch ở Nam Kinh năm 280 sau dl.
4. Nhà sư Đạo Thanh, người Việt, là đệ tử của ngài Khâu Đà La và tất nhiên phải giỏi chữ Phạn vì đã bút thọ kinh Pháp Hoa Tam Muội do nhà sư Ấn độ Chi Cương Lương Tiếp dịch,…
5. Nhà sư Ma Ha Kỳ Vực đã đến nước ta vào thế kỷ thứ 4 sau dl.
6. Nhà sư Ma Ha Đề Bà đến nước ta vào thế kỷ thứ 5, dạy Thiền cho ngài Huệ Thắng tại chùa Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
7. Nhà sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến nước ta vào thế kỷ thứ 6 sau dl, dịch kinh Tổng Trì tại chùa Pháp Vân, và tại đây đã lập nên dòng Thiền Pháp Vân.
8. Nhà sư Đại Thừa Đăng của nước ta đã cùng với một số khác đi chiêm bái và học tập tại Ấn Độ. Về sau ngài Đại Thừa Đăng là một thành viên trong ban dịch kinh chữ Phạn ra chữ Hán tại dịch trường chùa Từ Ân dưới sự chủ biên của ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang. Ngài đã để lại các tác phẩm như Câu Xá Luận Ký, Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận Chú, v.v…oaHoa.
9. Thiền sư Việt Nam Ma Ha Ma Da (Māhamāya) thuộc dòng Thiền Pháp Vân được Thiền Uyển Tập Anh ghi nhận là giỏi cả chữ Hán và chữ Phạn.
10. Thiền sư Việt Nam Sùng Phạm (1004-1087) cũng thuộc dòng Thiền Pháp Vân đã du học 9 năm tại Ấn Độ.
11. Nhà sư Bồ Đề Thất Lỵ (Bodhiṣrī ) đã đến nước ta vào thế kỷ 13, đã được vua Trần Nhân Tông (1258-1308) yêu cầu dịch các bài chú Lăng Nghiêm ra chữ Hán.
12. Thiền sư Việt Nam Pháp Tính trong thế kỷ 16, đã soạn quyển từ điển Hán-Việt đầu tiên còn lại, có tên Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa, trong đó ngài đã ghi một số từ phiên âm chữ Phạn ra chữ Hán.
13. Nhà bác học Lê Quý Đôn, trong quá trình biên soạn, nghiên cứu đã làm một bản tự điển nhỏ chữ Phạn phiên âm ra chữ Hán, đăng
trong Kiến Văn Tiểu Lục 9.
14. Thiền sư Việt Nam An Thiền trong thế kỷ 19 đã viết Đạo Giáo Nguyên Lưu trong đó có một số trang dành để ghi lại những chữ Phạn với nghĩa chữ Hán.
Những sự kiện trên cho thấy tiếng Phạn với Phật pháp đã đến dân tộc bản địa ta khá sớm, sớm hơn Phập pháp bằng chữ Hán. Tuy nhiên do nước ta bị phương Bắc đô hộ trong 1000 năm, và chữ Hán đã trở thành chữ viết chính thống trong mạng lưới hệ thống chính trị, xã hội nước ta cho mãi tới những thập niên đầu thế kỷ 20 ( mãi tới năm 1919 những khoa thi bằng chữ Hán mới được bãi bỏ ) cho nên vì thế Kinh sách Phật Giáo bằng Hán văn đã sở hữu vị trí tuyệt đối trong thiền môn nước ta trong thời hạn khá dài. Vì vậy hoàn toàn có thể nói rằng giới Phật tử ViệtNamít chăm sóc tới tiếng Phạn từ trong quá khứ đến hiện tại. Ngày nay, những thế hệ trẻ của Phật giáo Nước Ta, không những cần am hiểu chữ Hán mà còn cần am hiểu chữ Phạn ( theo Phật giáo Bắc tông ( Đại Thừa ) ), Pāli ( theo Phật giáo Nam tông, Nguyên Thủy ( Tiểu Thừa ) ) để học tập, điều tra và nghiên cứu và khi cần hoàn toàn có thể truy cứu ý nghĩa đích thực của lời Phật dạy và lời của những Thánh tăng từ những nguồn kinh tiếng Phạn, Pāli. Việc truy lùng nguyên gốc tiếng Phạn sẽ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc giúp cho người Phật tử ViệtNamđọc tương đối đúng âm của những từ tiếng Phạn vốn được phiên âm ra tiếng Trung Quốc trong kinh văn mà không dịch nghĩa. Chẳng hạn, câu thần chú trong Bát Nhã Tâm Kinh, nguyên văn tiếng Phạn là : Gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā Nếu phiên âm trực tiếp ra tiếng Việt thì hoàn toàn có thể đọc là : Ga-tê ga-tê paa-ra-ga-tê paa-ra-xân-ga-tê bô-đi xoaa-haa ( aa đọc a với trường độ dài gấp 2 lần a ) sẽ tạo ra âm thanh tương đối gần với âm thanh của nguyên văn tiếng Phạn. Nhưng từ lâu nay tất cả chúng ta đọc những từ phiên âm của người Trung Quốc : 揭帝 揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝菩提 僧莎訶 theo âm Hán Việt cho nên vì thế là : Yết đế yết đế ba la yết đế ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha thì rõ ràng có lệch nhiều so với âm của nguyên câu tiếng Phạn. Tất nhiên người Trung Quốc đọc câu phiên âm của họ thì nghe âm thanh gần với âm tiếng Phạn. Vậy xin ý kiến đề nghị là so với những từ Phạn không thể dịch mà phiên âm, đặc biệt quan trọng là hàng loạt những câu chú thì người Việt tất cả chúng ta nên phiên âm trực tiếp từ tiếng Phạn ra tiếng Việt để đọc, chứ không nên chỉ biết và chỉ đọc câu phiên âm ra tiếng Trung Quốc theo âm Hán Việt mà thôi. Ngoài ra, ngày này trong khuynh hướng toàn câu hóa, và đặc biệt quan trọng là người Phương Tây ngày càng quy ngưỡng Phật pháp, cho nên vì thế giới Phật tử trẻ của Nước Ta nên học thêm tiếng Anh để có điều kiện kèm theo tìm đọc nhiều tài liệu Phật pháp bằng tiếng Anh rất đa dạng chủng loại đang được thông dụng trên quốc tế qua sách, báo, Internet, đồng thời hoàn toàn có thể cung ứng được sự giao lưu, hội nhập của Phật giáo Nước Ta với Phật giáo của quốc tế trong trách nhiệm hoằng pháp cho người phương Tây khi họ tới với Thiền viện hay chùa của ta ( hay tăng ni tất cả chúng ta tới xứ họ ) hay tham gia hội nghị, hội thảo chiến lược quốc tế như trong Đại Lễ Phật Đản Quốc Tế được tổ chức triển khai hàng năm dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc ( năm 2008 Hà Nội Thủ Đô TP. Hà Nội đã vinh dự được Liên Hiệp Quốc chọn làm nơi cử hành Đại Lễ Vesak ).
Lê Tự Hỷ
Tài liệu tham khảo và chú thích :
1. Vĩnh Lạc Bắc Tạng là Đại Tạng Kinh được biên dịch hoàn thành dưới thời Hoàng đế Vĩnh Lạc nhà Minh, Trung quốc. Đại Tạng Kinh nầy là công trình biên dịch, hiệu đính từng chữ một của 136 nhà Phật học hàn lâm do Hoàng đế Trung Quốc triệu tập trong 3 năm để bảo đảm tính xác thực của nguyên bản. Nhưng bộ Vĩnh Lạc Bắc Tạng được biên dịch là để dành riêng cho Hoàng đế và để tặng thưởng cho những người xứng đáng, vì vậy không phải là bộ Đại Tang Kinh được phổ biến rộng rãi. Đây là xuất bản phẩm Phật giáo vĩ đại với giá trị cao, quí hiếm, đầu tiên, chưa từng có trên thế giới trong hơn 600 năm qua, hiện còn được lưu giữ trong Viện Bảo Tàng Của Hoàng Cung ở Trung Quốc.
Vĩnh Lạc (Yongle, Wade-Giles: Yung-lo; 02/05/1360 – 12/08/1424) là hiệu của Hoàng đế Minh Thành Tổ, ông vua thứ 3 của nhà Minh, lên làm
vua năm 1402 sau khi chiếm được ngôi trong một cuộc tranh giành quyền lực, được xem như người thiết lập thứ hai của triểu đại nhà Minh. Ông là
vị Hoàng đế vĩ đại nhất của triều Minh, và là một trong những Hoàng đế vĩ đại của Trung Quốc. Ông đã dời kinh đô từ Nam Kinh đến Bắc Kinh, xây Tử Cấm Thành, cho sửa chữa và mở lại con kênh lớn của Trung quốc đã bỏ hoang hư hại từ thời nhà Đường, để cung cấp lương thực và hoàng hóa cho thủ đô mới Bắc Kinh. Ông cũng đã cũng cố, nâng cấp, chỉnh đốn việc thi cử để tuyển chọn người có tài học vào làm quan thay cho việc tiến cử và bổ nhiệm do giới quan lai thực hiện trước đây. Trong thời của Vĩnh Lạc, một bộ Bách Khoa Toàn Thư vĩ đại đã được biên soạn hoàn thành. (Cũng nên
biết Vĩnh Lạc đã cho quân qua xâm lược nước ta vào thời nhà Hồ và quân xâm lược nầy đã bị Bình Định Vương Lê Lợi đánh bại trong cuộc kháng chiến 10 năm 1418-1428).
2. Lê Mạnh Thát, Nguyên Giác, và Như Minh, Ngữ Pháp Tiếng Phạn, Nhà Xuất Bản Tp Hồ Chí Minh, 2000, tr. ii.
3. Theo Tôn Thất Qụy, Giáo sư tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế
4. The Devanagari Script, trong http://acharya.ittm.ac.in/sanskrit/lessons/Devan/devan.html
5. F.Max Muller, Bunyiu Nanjio, The Ancient Palm-Leaves: Containing The Prajnaparamita-Hridaya-Sutra And The Ushnisha_Vigaya-Dharani, Oxford
At The Claredon Press.
6. Franklin Edgerton, Buddhist Hybrid Sanskrit, vol. I Grammar, Motilal Banarsidass, 1998, tr.1.
7. Indic languages tức là các ngôn ngữ thuộc nhóm các ngôn ngữ Ấn-Iran, là họ con của họ các ngôn ngữ Ấn- Âu.
8.Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8,
No. 2/3, tr. 504.
9.
Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8,
No. 2/3, tr. 502.
10.
Jagajjyoti, Buddha Jayanti Annual, 1984, tr. 4, được in lại trong K.R. Norman, Collected Papers, vol. III,1992, Pāli Text Society, tr. 37
11.
Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8,
No. 2/3, tr. 503.
12.
Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8,
No. 2/3, tr. 502.
13,
14, 15, 16 (10: Cullavagga 5.33; Vin.ii.139.1ff.) Franklin Edgerton, Buddhist Hybrid Sanskrit Grammar And Dictionary, Vol. I, tr. 1-2
17. Franklin Edgerton, Buddhist Hybrid Sanskrit Grammar And Dictionary, Vol. I, tr. 3.
18. Franklin Edgerton, Buddhist Hybrid Sanskrit Grammar And Dictionary, Vol. I, tr. 4. Lin Li-kouang (Aide-mémoire, p. 227-8 ).
19,
20. Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8, No. 2/3, tr. 503-505.
21.
Kranklin Edgerton, The Prakit Underlying Buddhistic Hybrid Sanskrit, Bulletin of the School of Oriental Studies, Unversity of London, Vol. 8,
No. 2/3, tr. 504.
22. J.K. Nariman, Literary History Of Sanskrit Buddhism, Motilal Banarsidas Publishers Pvt. Ltd, 1992.
23. Như số 2.
24.
Theo Cổ Châu Pháp Vân Phật Bản Hành Ngữ Lục – Có thể xem Thích Phước Đạt, Tín Ngưỡng Tứ Pháp Trong Vai Trò Chấn Hưng Văn Hóa Đại Việt, Nguyệt
San Giác Ngộ, số 152, tháng 11/2008, tr. 50-58).
_________________________________________ Tuesday, March 15, 2005, 5 : 00-7 : 30 p. m.
Michael Hahn, Numata Visiting Professor in Buddhist Studies, UC Berkeley
A Never-ending Story – On the Rediscovery of Buddhist Sanskrit Texts
IEAS Conference Room, 2223 Fulton St., 6th Floor
After the demise of Buddhism in the fourteenth century almost the entire body toàn thân of Buddhist texts was lost inIndia. However, outsideIndiaproper Buddhist Sanskrit manuscripts survived inNepal, Kashmir, Central Asia, Tibetand elsewhere. The process of locating and accessing these manuscripts is by no means completed, and new and exciting discoveries continue to be made. Reconstituting a particular corpus of Buddhist narrative literature, Michael Hahn will illustrate how recent discoveries can make it possible to regain works of seminal importance that have been believed to be irretrievably lost in the Sanskrit original.
Michael Hahn is the current Numata Visiting Professor in Buddhist Studies at theUniversityofCalifornia,Berkeley. A professor of Indology and Tibetology at Philipps-University inMarburg(Germany), his research interests focus on classical Sanskrit and Buddhist literature, in particular narrative works and didactic and epistolary texts. He is the author of numerous articles and books, among them a primer of the Tibetan language that has been reprinted seven times and is now forthcoming in an English translation.
Source: http://139.180.218.5
Category: Thuật ngữ đời thường