Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Triết học tinh thần – Wikipedia tiếng Việt

[1]. Não tướng học là một trong những nỗ lực đầu tiên liên hệ những chức năng tinh thần với những phần cụ thể của bộ não.Một map não tướng học về bộ não người có từ năm 1894. Não tướng học là một trong những nỗ lực tiên phong liên hệ những công dụng ý thức với những phần đơn cử của bộ não .

Triết học tinh thần là một chuyên ngành trong triết học nghiên cứu bản chất tinh thần, các hiện tượng, chức năng và đặc tính của tinh thần, năng lực ý thức và mối quan hệ giữa chúng với thể xác, đặc biệt là với bộ não[2]. Vấn đề tâm-vật (mind-body problem) có nghĩa là mối liên hệ giữa tinh thần (tâm) và thể xác (vật), thường được xem là đề tài trung tâm trong triết học tinh thần, mặc dù còn có nhiều vấn đề khác liên quan đến bản chất của tinh thần mà không có mối liên hệ với thể xác.

Nhị nguyên luận và nhất nguyên luận là hai trường phái tư tưởng chính nỗ lực giải quyết vấn đề tâm-vật. Trong trường phái nhị nguyên luận có thể kể đến triết học của Platon[3], Aristoteles[4][5][6] và các trường phái Sankhya (सांख्य दर्शन) và Yoga của triết học Hindu[7], nhưng nó được trình bày một cách có hệ thống lần đầu tiên bởi triết gia Descartes vào thế kỉ 17[8]. Trong số những người theo nhị nguyên luận, các triết gia theo trường phái thực thể (Substance Dualist) cho rằng tinh thần là một thực thể tồn tại độc lập, trong khi những người theo trường phái đặc tính (hay thuộc tính) (Property Dualist) xem tinh thần là một nhóm những đặc tính nảy sinh từ bộ não và không thể quy giản về chính bộ não nhưng cũng không phải là một thực thể riêng biệt[9].

Lập trường của nhất nguyên luận cho rằng tinh thần và thể xác không phải là những dạng thực thể khác nhau về mặt bản thể. Quan điểm này xuất hiện lần đầu tiên trong triết học phương Tây là từ Parmenides ở thế kỷ 5 TCN và sau đó được nhà triết học duy lý Baruch Spinoza cổ vũ[10]. Những nhà duy vật lý lập luận rằng chỉ những thực thể được thừa nhận bởi lý thuyết vật lý là tồn tại, và tinh thần cuối cùng sẽ có thể được giải thích theo những thực thể đó một khi lý thuyết vật lý tiếp tục phát triển. Những nhà duy tâm thì tin rằng tinh thần là tất cả những gì tồn tại và rằng thế giới bên ngoài hoặc là mang tính tinh thần, hoặc là một ảo giác được tạo bởi tinh thần. Phái nhất nguyên luận trung tính cho rằng có một dạng thực thể trung tính mà cả vật chất và tinh thần đều là các đặc tính của dạng thực thể còn chưa được biết này. Những phái nhất nguyên phổ biến nhất trong thế kỉ 20 và đầu thế kỉ 21 là những biến thể khác nhau của chủ nghĩa duy vật lý, các lập trường này bao gồm chủ nghĩa hành vi, thuyết đồng nhất loại, nhất nguyên luận dị thường, thuyết chức năng[11].

Hầu hết những nhà triết học niềm tin văn minh gật đầu lập trường duy vật lý quy giản hoặc phi quy giản, duy trì theo những phương pháp khác nhau quan điểm cho rằng ý thức không phải là thứ gì đó tách rời khỏi thể xác [ 11 ]. Những cách tiếp cận này đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng tác động trong khoa học, nhất là sinh học xã hội, khoa học máy tính, tâm lý học tiến hóa và những loại khoa học thần kinh khác nhau [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ], mặc dầu có một số ít triết gia giữ lập trường phi duy vật lý phê phán ý niệm cho rằng ý thức là một cấu trúc thuần túy vật chất [ 16 ]. Các nhà duy vật lý quy giản chứng minh và khẳng định rằng tổng thể những trạng thái và đặc tính ý thức sau cuối sẽ được lý giải bằng những diễn đạt khoa học về những quy trình và trạng thái sinh lý [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ]. Các nhà duy vật lý phi quy giản lập luận rằng mặc dầu tâm linh trọn vẹn tiềm ẩn trong bộ não, những kết đề và từ vựng sử dụng trong những miêu tả và diễn giải ý thức là không hề thiếu, và không hề bị quy giản hóa thành ngôn từ và những diễn giải mức thấp hơn của khoa học vật chất [ 20 ] [ 21 ]. Những tân tiến không ngừng trong khoa học thần kinh từ nửa sau thế kỉ 20 tới nay đã giúp làm sáng tỏ một vài yếu tố. Tuy nhiên, còn rất lâu mới xử lý được chúng, và những triết gia niềm tin văn minh liên tục đặt câu hỏi về việc những phẩm chất chủ quan và tính dự tính của những trạng thái và đặc tính ý thức hoàn toàn có thể được lý giải theo những thuật ngữ tự nhiên học như thế nào [ 22 ] [ 23 ] .
Vấn đề tâm-vật tương quan tới cách diễn giải mối quan hệ sống sót giữa niềm tin, hay những quy trình ý thức, với những trạng thái hay quy trình thuộc về thể xác [ 24 ]. Mục đích chính của những nhà triết học hoạt động giải trí trong nghành nghề dịch vụ này là xác lập thực chất của ý thức và những trạng thái / quy trình niềm tin, và có hay không – và như thế nào – niềm tin bị ảnh hưởng tác động và ảnh hưởng tác động tới thể xác .Các thưởng thức cảm quan của tất cả chúng ta phụ thuộc vào vào những kích thích từ quốc tế bên ngoài đến tới những giác quan khác nhau của tất cả chúng ta, và những kích thích này gây ra những biến hóa trong trạng thái ý thức, sau cuối khiến tất cả chúng ta có một cảm xúc, hoàn toàn có thể là dễ chịu và thoải mái hoặc không dễ chịu và thoải mái. Ước muốn của ai đó về một miếng pizza, ví dụ điển hình, có khuynh hướng khiến người đó di chuyển thể xác bằng một cách đơn cử theo một hướng đơn cử để lấy được cái mà anh ta / cô ta muốn. Do đó câu hỏi là làm thế nào mà những thưởng thức ý thức hoàn toàn có thể phát sinh từ một đám vật chất xám vốn không có gì đặc biệt quan trọng ngoài những thuộc tính điện hóa [ 11 ] .Một yếu tố tương quan là làm thế nào để một thái độ có tính mệnh đề ( ví dụ như niềm tin và ham muốn ) khiến cho những nơron của một cá thể hoạt động giải trí và những cơ bắp co lại. Những điều này hợp thành một trong những yếu tố nan giải đã từng thử thách những nhà nhận thức luận và triết học niềm tin tối thiểu từ thời của René Descartes [ 8 ] .

Các giải pháp nhị nguyên cho yếu tố tâm-vật.

Nhị nguyên luận trong triết học tinh thần là một tập hợp những quan điểm về mối liên hệ giữa tinh thần với vật chất (hay thể xác). Nó bắt đầu với khẳng định rằng các hiện tượng tinh thần, ở một vài khía cạnh nào đó, là phi vật chất[9]. Một trong những hình thức sớm nhất của nhị nguyên tâm-vật được thể hiện trong các trường phái triết học Ấn Độ như Sankhya và Yoga từ khoảng 650 TCN, chúng chia thế giới thành purusha (tinh thần) và prakriti (vật chất)[7]. Đặc biệt, những bài kinh (sutra) của Raja Yoga thể hiện cách tiếp cận có tính phân tích đối với bản chất của tinh thần.

Trong triết học phương Tây, những thảo luận sớm nhất về tư tưởng nhị nguyên là trong các bài viết của Platon và Aristoteles. Chúng khẳng định, nhưng với những lập luận khác nhau, rằng “trí tuệ” (một năng lực của tinh thần hay tâm linh) của con người không thể được xác định với, hay giải thích theo, thể xác của họ (trong thời Hy Lạp, cơ quan đó là trái tim)[3][4]. Tuy nhiên, phiên bản được biết đến nhiều nhất của nhị nguyên luận thuộc về René Descartes (1641), cho rằng tinh thần là một thực thể không giãn nở, phi vật chất, một “thực thể tinh thần” (res cogitans)[8]. Descartes là người đầu tiên xác định rõ tinh thần với ý thức và nhận thức, tách biệt điều này khỏi bộ não, nơi chứa đựng trí tuệ. Do đó ông là người đầu tiên thiết lập một cách hệ thống vấn đề tâm-vật theo dạng mà nó vẫn tồn tại tới ngày nay[8].

Các lập luận của nhị nguyên luận.

Lập luận được sử dụng tiếp tục nhất của nhị nguyên luận là dễ thấy bằng trực giác thường thì rằng những kinh nghiệm tay nghề nhận thức khác với vật chất vô sinh. Nếu được hỏi niềm tin là gì, người ta thường thì vấn đáp bằng những giống hệt nó với cái tôi của riêng họ, đậm chất ngầu của họ, linh hồn của họ, hoặc một thứ gì đó đại loại như vậy. Họ gần như chắc như đinh phủ nhận rằng niềm tin đơn thuần chính là bộ não, hoặc trái lại, thấy ý tưởng sáng tạo cho rằng chỉ một thực thể bản thể học thôi là quá cơ giới, hay đơn thuần là không hề hiểu được [ 9 ]. Nhiều nhà triết học niềm tin tân tiến nghĩ rằng những trực giác này là lừa mị và rằng tất cả chúng ta nên sử dụng những năng lượng phê phán của tất cả chúng ta, trải qua những bằng chứng thực nghiệm từ khoa học, để kiểm tra những giả thuyết này để xác định liệu có bất kỳ cơ sở thực tiễn nào cho chúng [ 9 ] .Một lập luận quan trọng khác là những đặc tính ý thức và vật chất có vẻ như là trọn vẹn độc lạ, và có vẻ như không hề hòa hợp [ 25 ]. Các sự kiện ý thức có một phẩm chất chủ quan, trong khi những sự kiện vật chất thì không. Vì thế, ví dụ điển hình người ta hoàn toàn có thể hỏi có nghĩa về cảm xúc một ngón tay bị bỏng như thế nào, hay một khung trời xanh trông thế nào, hay một bản nhạc hay như thế nào. Nhưng là câu hỏi không có ý nghĩa, hay tối thiểu là kỳ cục, khi hỏi sự dâng lên trong ống glutamate ở phần nối với tủy sống của thùy hải mã ( hippocampus ) trên não thấy thế nào .Các nhà triết học niềm tin gọi góc nhìn chủ quan của những sự kiện niềm tin là ” qualia ” ( tức cảm thụ tính ), hay ” cảm xúc thô ” [ 25 ] [ 26 ]. Đó là cái gì đó giống như cảm xúc đau đớn, hay giống như nhìn thấy một sắc thái xanh quen thuộc v.v.. Có những cảm thụ tính tham gia vào những sự kiện ý thức có vẻ như đặc biệt quan trọng khó để quy giản về bất kỳ thứ gì có tính vật chất [ 27 ] .Nếu ý thức ( niềm tin ) hoàn toàn có thể sống sót độc lập với hiện thực vật chất ( bộ não ), người ta phải lý giải những ký ức sức khỏe thể chất được tạo ra tương quan tới nhận thức như thế nào. Nhị nguyên luận do đó phải lý giải làm thế nào ý thức tác động ảnh hưởng tới hiện thực vật chất. Một cách lý giải khả dĩ cho rằng đó là một phép màu, được yêu cầu bởi Arnold Geulincx và Nicolas Malebranche, nghĩa là mọi tương tác tinh thần-thể xác yên cầu sự can thiệp trực tiếp của Thượng đế. Một lập trường tương tự như của Albert Einstein cho rằng sự lĩnh hội niềm tin về những ấn tượng tri giác là một phép màu [ 28 ]. Một cách lý giải khác được C. S. Lewis [ 29 ] đưa ra là ” Luận cứ từ Lý trí ” ( Argument from Reason ) : nếu mọi tâm lý của tất cả chúng ta là hệ quả của những căn nguyên thể xác như nhất nguyên luận ý niệm, thì tất cả chúng ta không có nguyên do gì để giả định rằng chúng cũng là hệ quả của một nền tảng hữu lý. Vì thế, nếu nhất nguyên luận là đúng, không có cách nào để biết điều này – hay bất kỳ điều gì khác – tất cả chúng ta không hề giả định nó, ngoại trừ nhờ một suôn sẻ .

Một lập luận khác, luận cứ thây ma sống (zombie argument) dựa trên một thí nghiệm tưởng tượng của Todd Moody, và phát triển bởi David Chalmers trong cuốn The Conscious Mind. Ý tưởng nền tảng là người ta có thể hình dung thể xác của một người, và do đó nhận thức sự tồn tại của cơ thể người này, không cần bất kì trạng thái ý thức nào được gắn với thể xác này. Lập luận của Chalmers là, dường như hợp lý để cho sinh vật như thế tồn tại vì tất cả những thứ cần thiết là tất cả và chỉ những thứ mà các khoa học vật lý mô tả về thây ma sống đó phải đúng về nó. Do không khái niệm nào trong các khoa học này dẫn chiếu tới ý thức hay những hiện tượng tinh thần khác, và bất kì thực thể vật chất nào có thể bằng định nghĩa được mô tả một cách khoa học thông qua vật lý, sự chuyển dời từ tính có thể hình dung được tới tính khả dĩ không phải là một bước chuyển lớn[30]. Những người khác như Dennett lập luận rằng ý niệm về một thây ma sống như thế là một quan niệm thiếu chặt chẽ[31], hoặc không thể[32]. Có thể lập luận theo chủ nghĩa duy vật lý là người ta phải tin rằng hoặc ai đó bao gồm cả chính họ có thể là một thây ma sống, hoặc rằng không ai có thể là một thây ma sống – kéo theo từ sự khẳng định rằng sự nhận thức của riêng một ai về việc là (hay không là) một thây ma sống là sản phẩm của thế giới vật chất và do đó không có gì khác với người khác cả. Lập luận này được diễn đạt bởi Dennett, người cho rằng “Các thây ma sống nghĩ rằng chúng có nhận thức; nghĩ rằng chúng có cảm thụ tính; nghĩ rằng chúng chịu đau đớn – chúng đơn giản là ‘sai’ (theo truyền thống đáng thương này), theo những cách mà chúng hay chúng ta không bao giờ có thể khám phá!”.[31]

Nhị nguyên luận tương tác.

Nhị nguyên luận tương tác (interactionist dualism), nói tắt là tương tác luận (interactionism), là một dạng đặc biệt của nhị nguyên luận đề xướng bởi Descartes trong cuốn Meditations (“Trầm tư”)[8]. Ở thế kỉ 20, những người bảo vệ chính của nó là Karl Popper và John Carew Eccles[33]. Đây là quan điểm cho rằng các trạng thái tinh thần, như niềm tin và ham muốn, tương tác nhân quả với các trạng thái vật chất[9].

Lập luận nổi tiếng của Descartes cho lập trường này hoàn toàn có thể tóm tắt như sau : Seth có một ý tưởng sáng tạo rõ ràng và riêng không liên quan gì đến nhau về ý thức anh ta như một thứ biết tâm lý không có sự co và giãn khoảng trống nào ( có nghĩa là, không hề đo được theo những đại lượng như chiều dài, chiều cao, cân nặng … ). Anh ấy cũng có một sáng tạo độc đáo rõ ràng và riêng không liên quan gì đến nhau về thể xác anh ta như một thứ co và giãn khoảng trống, đối tượng người dùng của những phép đo và không hề tâm lý. Suy ra ý thức và thể xác không giống hệt bởi chúng có những thuộc tính cơ bản khác nhau [ 8 ] .Tuy nhiên, rõ ràng là cùng lúc đó những trạng thái niềm tin của Seth ( ham muốn, niềm tin, vân vân ) có những ảnh hưởng tác động nhân quả lên thể xác anh ta và ngược lại : một đứa trẻ sờ vào một lò nóng ( sự kiện thể xác ) hoàn toàn có thể gây ra đau đớn ( sự kiện niềm tin ) và khiến nó hét lên ( sự kiện thể xác ), điều này đến lượt mình gây nên cảm xúc sợ hãi và sự chăm sóc ở người trông trẻ ( sự kiện niềm tin ), và vân vân .Lập luận của Descartes nhờ vào cơ bản vào tiền đề rằng những gì mà Seth tin rằng đó là những ý tưởng sáng tạo ” rõ ràng và riêng không liên quan gì đến nhau ” trong ý thức anh ấy nhất thiết đúng. Nhiều triết gia đương đại hoài nghi điều này [ 34 ] [ 35 ] [ 36 ]. Chẳng hạn, Joseph Agassi đề xuất kiến nghị rằng một vài tò mò khoa học thực thi từ đầu thế kỉ 20 đã xói mòn ý tưởng sáng tạo về sự truy vấn độc quyền vào tư tưởng của chính mình. Freud đã chỉ ra rằng một người quan sát được đào tạo và giảng dạy về tâm lý học hoàn toàn có thể hiểu những động lực vô thức của một người nào đó hơn chính bản thân anh ta. Duhem thì cho thấy rằng một triết gia khoa học hoàn toàn có thể biết những giải pháp mày mò của một cá thể tốt hơn chính cá thể đó làm, trong khi Malinowski chứng tỏ rằng một nhà quả đât học hoàn toàn có thể biết về những phong tục và thói quen của một người tốt hơn chính người đó. Ông cũng khẳng định chắc chắn rằng những thí nghiệm tâm lý học tân tiến khiến con người nhìn thấy những thứ không có ở đó ( ảo giác ) phân phối cơ sở cho việc phủ nhận lập luận của Descartes [ 37 ] [ 38 ]. Điểm yếu chung cho toàn bộ những lập luận chống lại tương tác luận là chúng đặt hàng loạt sự đồng cảm nội tâm vào nghi vấn. Chúng ta biết rằng con người nhầm lẫn về quốc tế ( gồm có cả những trạng thái nội tâm của những người khác ), nhưng không phải luôn như vậy. Do đó là vô lý về mặt logic để giả thiết rằng những cá thể luôn luôn sai về những trạng thái ý thức và về những đánh giá và nhận định về chính bản chất của ý thức .

Các dạng nhị nguyên luận khác.

Bốn biến thể của nhị nguyên luận : nhị nguyên luận tương tác, thuyết hiện tượng kỳ lạ phụ, thuyết song song tâm vật, và chủ nghĩa duy vật lý không quy giản. Các mũi tên chỉ ra hướng tương tác nhân quả. Thuyết ngẫu nhiên không được chỉ trong hình .

Thuyết song song tâm vật.

Thuyết song song tâm vật (Psychophysical parallelism), nói tắt là thuyết song song, là quan điểm cho rằng tinh thần và thể xác, trong khi có những trạng thái bản thể riêng biệt, không ảnh hưởng nhân quả lên nhau. Thay vì thế, chúng vận hành theo những con đường song song (các sự kiện tinh thần tương tác nhân quả với các sự kiện tinh thần và các sự kiện não bộ tương tác nhân quả với các sự kiện não bộ) và chỉ có vẻ như ảnh hưởng tới nhau[39]. Quan điểm này được bảo vệ nhiệt liệt bởi Gottfried Leibniz. Mặc dù Leibniz là một nhà nhất nguyên luận bản thể tin rằng chỉ có một loại thực thể, là đơn tử (monad), tồn tại trong vũ trụ, và rằng mọi thứ có thể quy giản về nó, tuy nhiên ông khẳng định rằng có sự khác biệt quan trọng giữa “tinh thần” và “vật chất” theo nghĩa nhân quả. Ông tin rằng Thượng đế đã sắp xếp mọi sự vật từ trước để cho cái tâm linh và cái thể xác hài hòa với nhau. Điều này được biết đến như tín điều về hài hòa tiền định[40].

Thuyết ngẫu nhiên.

Thuyết ngẫu nhiên (occasionalism) là quan điểm khởi xướng bởi Nicholas Malebranche, khẳng định rằng tất cả các mối quan hệ được cho là nhân quả giữa các hiện tượng vật lý với nhau, hay giữa các hiện tượng vật lý với các hiện tượng tinh thần, thực ra không hề có tính nhân quả chút nào. Trong khi thể xác và tinh thần là những thực thể khác nhau, các nguyên nhân (bất kể tinh thần hay thể xác) liên hệ với những hệ quả của nó bởi hành động can thiệp của Thượng đế trong mỗi thời điểm cụ thể[41].

Nhị nguyên luận đặc tính.

Nhị nguyên luận đặc tính (property dualism) là quan điểm rằng thế giới cấu tạo từ chỉ một loại thực thể – là loại vật chất – và tồn tại hai loại thuộc tính khác biệt: những đặc tính vật chất và những đặc tính tinh thần. Nói cách khác, đó là quan điểm cho rằng các đặc tính tinh thần, phi vật chất (như niềm tin, cảm xúc) vốn có trong một số đối tượng vật chất (ít nhất là não). Các đặc tính tinh thần và vật chất liên hệ nhân quả với nhau như thế nào phụ thuộc vào từng biến thể của nhị nguyên luận đặc tính, và không luôn luôn là một vấn đề rõ ràng. Các nhánh nhỏ thuộc nhị nguyên luận đặc tính bao gồm:

  1. Thuyết đột sinh mạnh (strong emergentism) khẳng định rằng khi vật chất được tổ chức theo những cách thức thích hợp (chẳng hạn theo cách mà những cơ thể sống của con người được tổ chức), các đặc tính tinh thần đột sinh theo một cách không thể giải thích bằng các quy luật vật lý. Do đó, đây là một dạng của chủ nghĩa duy vật đột sinh[9]. Những đặc tính đột sinh này có một trạng thái bản thể độc lập và không thể quy giản về, hay giải thích theo, nền tảng vật chất mà từ đó nó xuất hiện. Chúng phụ thuộc vào các đặc tính vật chất mà từ đó chúng sinh ra, nhưng các quan điểm lại bất đồng ở điểm liên quan tới tính cố kết của quan hệ nhân quả trên-dưới, nghĩa là tính ảnh hưởng nhân quả của các đặc tính này. Một dạng nhị nguyên luận đặc tính được David Chalmers cổ vũ và quan niệm này, vốn được hình thành từ thế kỷ 19 bởi William James, đã trải qua những đổi mới nhất định trong những năm gần đây[42].
  2. Thuyết hiện tượng phụ (epiphenomenalism) là một học thuyết lần đầu tiên được Thomas Henry Huxley[43] phát biểu. Nó hàm chứa quan điểm rằng các hiện tượng tinh thần là bất lực về mặt nhân quả, theo đó một hay nhiều trạng thái tinh thần không có bất kì ảnh hưởng nào lên các trạng thái vật chất. Các sự kiện vật chất có thể gây ra những sự kiện vật chất khác cũng như gây ra các sự kiện tinh thần, nhưng các sự kiện tinh thần không thể gây ra bất cứ sự kiện gì, bởi vì chúng chỉ là những phụ phẩm trơ về mặt nhân quả (nghĩa là hiện tượng phụepiphenomena) của thế giới vật chất[39]. Quan điểm này được bảo vệ mạnh mẽ nhất trong thời gian gần đây bởi Frank Jackson[44].
  3. Chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản (non-reductive physicalism) là quan điểm cho rằng các đặc tính tinh thần tạo nên một lớp bản thể tách biệt đối với các đặc tính vật chất: các trạng thái tinh thần (như cảm thụ tính) không thể quy giản về các trạng thái thể xác. Quan điểm bản thể đối với cảm thụ tính trong trường hợp chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản không hàm ý rằng cảm thụ tính là trơ về mặt nhân quả; đây là điểm phân biệt nó với thuyết hiện tượng phụ.
  4. Toàn tâm luận (panpsychism) là quan điểm cho rằng tất cả vật chất đều có khía cạnh tinh thần, hay nói cách khác, tất cả các đối tượng đều có một trung tâm kinh nghiệm hay quan điểm thống nhất. Bề ngoài, nó dường như là một dạng của nhị nguyên luận đặc tính, vì nó coi mọi thứ có cả những đặc tính tinh thần và vật chất. Tuy nhiên, một số nhà toàn tâm luận nói rằng hành vi cơ học sinh ra từ tính tinh thần nguyên thủy của nguyên tử và phân tử—cũng như tính tinh thần phức tạp và hành vi hữu cơ, sự khác biệt được gán cho sự hiện diện hay sự thiếu vắng của cấu trúc phức hợp trong một đối tượng phức hợp. Chừng nào mà sự quy giản các đặc tính phi tinh thần thành những đặc tính tinh thần còn có chỗ thì toàn tâm luận không phải là một dạng (mạnh) của nhị nguyên luận đặc tính; còn khác đi thì nó chính là như vậy.

Lý thuyết góc nhìn kép.

Lý thuyết góc nhìn kép là quan điểm cho rằng ý thức và vật chất là hai góc nhìn, hay phương diện, về cùng một thực thể ( do đó nó có một lập trường trộn lẫn, nó là nhất nguyên ở một vài góc nhìn khác ). Mối quan hệ giữa kim chỉ nan này với nhất nguyên luận trung tính khó xác lập, nhưng có người cho rằng sự độc lạ là trong khi nhất nguyên luận trung tính được cho phép toàn cảnh của một nhóm gồm những yếu tố trung tính cho trước xác lập nhóm là thuộc về niềm tin, vật chất hay cả hai, hoặc không cái nào, thì triết lý góc nhìn kép yên cầu tính ý thức và tính vật chất là không hề chia tách và cái này không hề quy giản về cái kia ( dù độc lạ ) [ 45 ] .

Giải pháp nhất nguyên cho yếu tố tâm-vật.

Trái với nhị nguyên luận, nhất nguyên luận không chấp nhận bất cứ sự phân chia ở mức cơ bản nào. Bản chất không phân chia của hiện thực là trung tâm của các hình thái triết học phương Đông từ hai thiên niên kỉ nay. Trong triết học Ấn Độ và Trung Quốc, nhất nguyên luận là không thể thiếu đối với việc kinh nghiệm được nhận thức ra sao. Ngày nay, những dạng phổ biến nhất của nhất nguyên luận trong triết học phương Tây là chủ nghĩa duy vật lý (physicalism)[11]. Các nhà duy vật lý khẳng định rằng thực thể tồn tại duy nhất là vật chất (physical), theo nghĩa được xác định bởi trình độ khoa học tiên tiến nhất có thể[46]. Tuy nhiên, có sự đa dạng trong cách phát biểu chủ nghĩa duy vật lý (xem dưới đây). Bên cạnh đó, còn một dạng khác của nhất nguyên luận là chủ nghĩa duy tâm, cho rằng thực thể duy nhất tồn tại là tinh thần. Mặc dù chủ nghĩa duy tâm thuần túy, như của George Berkeley, ít phổ biến trong triết học phương Tây hiện đại, một biến thể tinh tế của nó gọi là toàn tâm luận, theo đó các kinh nghiệm và đặc tính tinh thần có thể là nền tảng của các kinh nghiệm và đặc tính vật chất, được đề xướng bởi một số triết gia như Alfred North Whitehead và David Ray Griffin[42].

Hiện tượng luận là kim chỉ nan cho rằng sự diễn đạt ( hay những tài liệu tri giác ) của những đối tượng người tiêu dùng bên ngoài là toàn bộ những gì sống sót. Quan điểm như vậy đã được gật đầu bởi Bertrand Russell và nhiều nhà thực chứng logic trong một thời hạn ngắn đầu thế kỉ 20 [ 47 ]. Khả năng thứ ba là gật đầu sự sống sót của một thực thể cơ bản chẳng phải vật chất lẫn ý thức, do đó niềm tin và vật chất đều là những đặc tính của thực thể trung tính này. Lập trường như vậy đã được đồng ý bởi Baruch Spinoza [ 10 ] và được phổ cập bởi Ernst Mach [ 48 ] trong thế kỉ 19. Thuyết này gọi là nhất nguyên luận trung tính, tương tự như với nhị nguyên luận thuộc tính .

Các dạng nhất nguyên luận duy vật lý.

Chủ nghĩa hành vi.

Chủ nghĩa hành vi (behaviourism) từng thống trị triết học tinh thần phần lớn thế kỉ 20, đặc biệt là trong nửa đầu thế kỉ[11]. Trong tâm lý học, chủ nghĩa hành vi phát triển như một phản ứng đối với thuyết nội quan[46]. Các tường thuật nội quan về đời sống nội tâm con người không phải là chủ đề cho những kiểm tra chính xác và không thể sử dụng để lập nên một sự khái quát hóa dự liệu. Không có sự khái quát hóa và tính khả dĩ kiểm tra của bên thứ ba, tâm lý học không thể mang tính khoa học[46]. Do đó, lối thoát là phải loại bỏ hoàn toàn ý tưởng về một đời sống nội tâm (và theo đó là một tinh thần độc lập về bản thể) và thay vào đó tập trung vào mô tả các hành vi quan sát được [49].

Song hành với những phát triển này trong tâm lý học, chủ nghĩa hành vi triết học (đôi khi gọi là chủ nghĩa hành vi logic) được hình thành[46]. Điều này được đặc trưng bởi một lý thuyết kiểm chứng (verificationism) mạnh, thứ thường xem các mệnh đề không kiểm chứng được về đời sống nội tâm là vô nghĩa. Đối với những người theo chủ nghĩa hành vi, các trạng thái tinh thần không phải là những trạng thái bên trong mà người ta có thể đưa ra các tường thuật nội quan. Đó chỉ là những mô tả về hành vi hay ý định (disposition) hoạt động theo những cách nhất định, thực hiện bởi bên thứ ba để giải thích và phán đoán hành vi người khác[50].

Chủ nghĩa hành vi triết học đã đánh mất sự phổ biến kể từ những thập niên cuối của thế kỉ 20, với sự lớn mạnh của thuyết nhận thức (cognitivism)[2]. Những người theo thuyết này phủ nhận thuyết hành vi do một số vấn đề nhận thức, chẳng hạn, chủ nghĩa hành vi được cho là phản trực giác khi tin là ai đó đang nói về hành vi trong sự kiện một người đang bị nhức đầu.

Thuyết giống hệt.

Chủ nghĩa duy vật lý loại (hoặc lý thuyết loại-đồng nhất) được phát triển bởi John Smart[19] và Ullin Place[51] như sự phản ứng trực tiếp đối với sự thất bại của chủ nghĩa hành vi. Các triết gia này lập luận rằng, nếu các trạng thái tinh thần là thứ gì đó thuộc về vật chất, mà không phải hành vi, thì các trạng thái tinh thần chắc hẳn phải đồng nhất đối với các trạng thái bên trong bộ não. Nói một cách đơn giản hóa: một trạng thái tinh thần M không là gì hơn ngoài một trạng thái bộ não B. Trạng thái tinh thần “thèm một cốc cà phê” không là gì hơn “sự đốt cháy những nơron nhất định trong những vùng não nhất định”[19].

identity theory) và Nhất nguyên luận dị thường (anomalous monism) đối lập nhau. Đối với lý thuyết đồng nhất, mỗi minh họa biểu hiện của một loại tinh thần đơn lẻ tương ứng (được chỉ bằng những mũi tên) với một dấu hiệu thể xác của một loại thể xác đơn lẻ. Với nhất nguyên luận dị thường, tương ứng biểu hiện-biểu hiện có thể rơi ra ngoài sự tương ứng loại-loại. Kết quả là sự đồng nhất biểu hiện.Lý thuyết giống hệt cổ xưa ( ) và Nhất nguyên luận dị thường ( ) trái chiều nhau. Đối với triết lý giống hệt, mỗi minh họa bộc lộ của một loại niềm tin đơn lẻ tương ứng ( được chỉ bằng những mũi tên ) với một tín hiệu thể xác của một loại thể xác đơn lẻ. Với nhất nguyên luận dị thường, tương ứng biểu hiện-biểu hiện hoàn toàn có thể rơi ra ngoài sự tương ứng loại-loại. Kết quả là sự như nhau biểu lộ .

Mặc dù những lập luận ban đầu tỏ ra hữu lý, lý thuyết đồng nhất vấp phải một thách thức nghiêm trọng dưới dạng lập luận về tính ‘khả thi phức’ (multiple realizability), được thiết lập đầu tiên bởi Hilary Putnam[21]. Rõ ràng là không chỉ con người, mà nhiều loại động vật khác có thể, chẳng hạn, chịu đựng đau đớn. Tuy nhiên, dường như không chắc lắm rằng tất cả những sinh vật đa dạng này với cùng trải nghiệm đau đớn ở trong cùng một trạng thái bộ não đồng nhất. Và nếu như vậy, thì nỗi đau không thể đồng nhất với một trạng thái bộ não riêng biện. Lý thuyết đồng nhất do đó là vô căn cứ về mặt thực nghiệm[21].

Mặt khác, ngay cả khi điều trên đây được thừa nhận, không có nghĩa vì thế mà tất cả các lý thuyết đồng nhất dưới mọi dạng bị loại trừ. Theo những lý thuyết đồng nhất biểu hiện (token identity theory), sự kiện rằng một trạng thái bộ não nhất định nào đó liên hệ với chỉ một trạng thái tinh thần của một người không có nghĩa là có một tương quan tuyệt đối giữa các loại trạng thái tinh thần và các loại của trạng thái bộ não. Sự khác biệt loại-biểu hiện có thể được minh họa bằng một ví dụ đơn giản: từ “green” chứa bốn loại ký tự (g, r, e, n) với hai biểu hiện (sự xuất hiện) của ký tự e cùng với một biểu hiện của mỗi ký tự còn lại.

Ý tưởng của tính giống hệt bộc lộ là chỉ có những sự Open đơn cử của những sự kiện niềm tin là như nhau với những sự Open đơn cử của những sự kiện vật chất [ 52 ]. Nhất nguyên luận dị thường ( xem dưới đây ) và hầu hết những chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản là những triết lý đồng nhất-biểu hiện [ 53 ]. Bất chấp những yếu tố này, ngày này đang có một sự chăm sóc được làm mới lại so với thuyết giống hệt loại, hầu hết do ảnh hưởng tác động của Jaegwon Kim [ 19 ] .

Thuyết công dụng.

Thuyết chức năng được đề xướng bởi Hilary Putnam và Jerry Fodor như một sự phản ứng đối với các khiếm khuyết của lý thuyết đồng nhất[21]. Putnam và Fodor xem xét các trạng thái tinh thần theo quan niệm của lý thuyết tính toán tinh thần thực nghiệm[54]. Cùng thời điểm hoặc sau đó một chút, D.M. Armstrong và David Kellogg Lewis thiết lập một phiên bản của thuyết chức năng phân tích các khái niệm tinh thần của tâm lý học công chúng theo các vai trò chức năng[55]. Một phái khác, thuyết chức năng tâm lý (psychofunctionalism) thường được nhắc đến với Jerry Fodor và Zenon Pylyshyn. Cuối cùng, ý tưởng của Wittgenstein về ý nghĩa như cách sử dụng dẫn tới một phiên bản của thuyết hành vi gọi là lý thuyết về ý nghĩa, được phát triển thêm bởi Wilfrid Sellars và Gilbert Harman.

Thứ mà toàn bộ những thuyết trên san sẻ là luận đề rằng những trạng thái ý thức được đặc trưng bởi những mối quan hệ nhân quả với những trạng thái niềm tin khác và với tri giác đầu vào cùng hành vi đầu ra. Có nghĩa là, thuyết hành vi trừu tượng hóa những cụ thể của sự bổ trợ vật chất với một trạng thái ý thức bằng cách diễn đạt nó theo những thuộc tính công dụng phi ý thức. Ví dụ, một quả thận được miêu tả một cách khoa học bởi vai trò có tính công dụng của nó trong việc lọc máu và duy trì 1 số ít cân đối hóa học nhất định. Theo quan điểm này, yếu tố không phải là liệu quả thận được làm từ những thành phần hữu cơ, ống nano hay những chíp silic : chính vai trò nó có và những mối liên hệ của nó với những cơ quan khác định nghĩa nên một quả thận [ 54 ] .

Chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản.

Các triết gia theo thuyết phi quy giản chứng minh và khẳng định hai xác tín tương quan đến mối quan hệ tinh thần-thể xác : 1 ) Chủ nghĩa duy vật lý là đúng và những trạng thái ý thức phải là những trạng thái vật chất, nhưng 2 ) Tất cả những mệnh đề quy giản là không thuyết phục : những trạng thái niềm tin không hề quy giản về hành vi, tính năng hay trạng thái bộ não [ 46 ]. Do đó, thiết yếu có một chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản. Thuyết nhất nguyên luận dị thường của triết gia Donald Davidson [ 20 ] là một nỗ lực thiết lập một thứ chủ nghĩa duy vật lý như vậy .

Davidson sử dụng luận đề về tính đột hiện (supervenience): các trạng thái tinh thần xuất hiện đột ngột trong các trạng thái vật chất, nhưng không thể quy giản về chúng. “Sự đột hiện” do đó mô tả một sự phụ thuộc chức năng: không có sự thay đổi nào trong tinh thần mà lại không có sự thay đổi nào đó trong tính có thể quy giản nhân quả-vật chất giữa tinh thần và vật chất không có tính có thể quy giản bản thể[56].

Bởi các thuyết duy vật lý phi quy giản nỗ lực để vừa giữ lại sự khác biệt bản thể giữa tinh thần và thể xác vừa cố giải quyết vấn đề tương tác giữa chúng; những người chỉ trích thường xem đây là một mâu thuẫn và chỉ ra tính tương tự của nó đối với thuyết hiện tượng phụ, theo khía cạnh chính bộ não được xem là gốc rễ không “gây ra” tinh thần, và tinh thần dường như bị làm cho trơ với ngoại vật.

Thuyết hiện tượng kỳ lạ phụ xem một hay nhiều trạng thái ý thức như phụ phẩm của những trạng thái bộ não vật chất, và không có tác động ảnh hưởng gì lên những trạng thái vật chất. Tương tác là một chiều ( xử lý yếu tố tương tác ), nhưng nó bỏ lại những trạng thái niềm tin không hề quy giản ( như một phụ phẩm của những trạng thái bộ não ) – vừa không hề quy giản theo bản thể lẫn nhân quả về những trạng thái vật chất. Sự đau nhức so với một người theo thuyết này được xem như gây nên bởi trạng thái bộ não nhưng không có tác động ảnh hưởng nào lên những trạng thái bộ não khác, mặc dầu nó hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động tới những trạng thái niềm tin khác ( ví dụ điển hình gây ra đau đớn ) .

Thuyết đột sinh yếu.

Thuyết đột sinh yếu là một dạng của chủ nghĩa duy vật lý phi quy giản bao gồm trong một quan điểm phân tầng về tự nhiên, với các tầng được sắp xếp theo độ phức tạp tăng dần và mỗi tầng ứng với một ngành khoa học riêng của nó. Một số triết gia khẳng định rằng các thuộc tính đột sinh tương tác nhân quả với các mức cơ bản hơn, trong khi những người khác tin rằng các thuộc tính bậc cao hơn đơn giản đột hiện từ các mức thấp hơn không cần tương tác nhân quả trực tiếp nào. Nhóm sau được xếp vào một quan niệm ít nghiêm ngặt hơn, hay “yếu” hơn, của thuyết đột sinh, có thể được phát biểu như sau: một thuộc tính (property) P của một đối tượng (object) phức O là đột sinh nếu như một đối tượng khác không thể, theo nghĩa siêu hình học, thiếu thuộc tính P nếu nó cấu tạo từ những phần có tính chất nội tại giống hệt với O và các phần này có cấu hình đồng nhất.

Đôi khi những người theo thuyết đột sinh sử dụng ví dụ về nước có một thuộc tính mới khi Hydro H và Oxy O kến hợp tạo nên H2O ( nước ). Trong ví dụ này đột sinh một thuộc tính mới của một chất lỏng trong suốt không hề tiên đoán được bằng việc hiểu hydro và oxy như chất khí. Điều này tương tự như với những thuộc tính vật chất của bộ não đem lại một trạng thái ý thức. Thuyết đột sinh cố xử lý khoảng cách hiển nhiên giữa niềm tin và thể xác theo cách này. Một yếu tố so với nó là ý tưởng sáng tạo về ” tính đóng nhân quả ” trong một quốc tế không cho phép tính nhân quả từ ý thức tới thể xác [ 57 ] .

Chủ nghĩa duy vật tiêu trừ.

Nếu một người theo phái duy vật và tin rằng tất cả các khía cạnh của tâm lý con người sẽ tìm thấy sự quy giản về một nền khoa học thần kinh nhận thức (cognitive-neuroscience) tiến bộ, và rằng chủ nghĩa duy vật phi qui giản là sai lầm, thì người đó giữa một lập trường dứt khoát, cấp tiến hơn: chủ nghĩa duy vật tiêu trừ.

Có một số biến thể khác nhau của chủ nghĩa duy vật tiêu trừ, nhưng tất cả đều khẳng định rằng tâm lý học công chúng thông thường đã xuyên tạc bản chất một số khía cạnh của nhận thức. Những nhà tiêu trừ luận như vợ chồng triết gia Patricia và Paul Churchland lập luận rằng trong khi tâm lý học công chúng coi nhận thức cơ bản là “giống câu nói” (sentence-like), mô hình vector/ma trận phi ngôn ngữ của lý thuyết mạng thần kinh hay thuyết kết nối (connectionism) sẽ chứng tỏ là một mô tả chính xác hơn về cách bộ não hoạt động[17].

Nhà Churchland cũng thường dẫn chứng số phận của những lý thuyết và bản thể luận sai lầm phổ biến khác từng nổi lên trong lịch sử[17][18]. Chẳng hạn, thiên văn học của Ptolemaeus phục vụ cho việc giải thích và tiên đoán đại khái chuyển động của các hành tinh trong hàng thế kỉ, nhưng cuối cùng mô hình này bị tiêu trừ bởi mô hình Copernicus. Họ tin rằng một số phận tiêu trừ như vậy chờ đợi mô hình “bộ xử lý câu” (sentence-cruncher) của tinh thần trong đó suy nghĩ và hành vi là kết quả của việc vận hành các trạng thái tương tự như câu gọi là “thái độ mệnh đề” (propositional attitudes).

Những thuyết nhất nguyên phi duy vật lý.

Chủ nghĩa duy tâm.

Chủ nghĩa duy tâm là dạng nhất nguyên luận xem quốc tế chỉ gồm có ý thức, những nội dung niềm tin hay ý thức. Các nhà duy tâm không đối lập với việc lý giải cách để ý thức sinh ra từ thể xác : theo họ, quốc tế, thể xác và vật thể đều xem như những vẻ bên ngoài thuần túy nắm giữ bởi niềm tin. Tuy nhiên, xử lý yếu tố tâm-vật không phải động lực chính so với những nhà duy tâm ; thay vào đó, những nhà duy tâm có khuynh hướng được thôi thúc bởi chủ nghĩa thiếu tín nhiệm hoặc mối chăm sóc tới tôn giáo. Chủ nghĩa duy tâm điển hình nổi bật trong tư tưởng triết học và tôn giáo phương Đông, trong khi nó lần lượt trải qua những sự thắng thế rồi quên lãng luân phiên trong lịch sử dân tộc triết học phương Tây. Những biến thể của chủ nghĩa duy tâm khác nhau trong ý niệm tin rằng hoàn toàn có thể có :

  • Nhiều tinh thần (chủ nghĩa duy tâm đa nguyên)
  • Chỉ một tinh thần con người (thuyết duy ngã)
  • Hay chỉ một Thể Tuyệt Đối (Vô Cực), Linh Hồn Vũ Trụ (Anima Mundi / Khí), Thượng đế / Chúa (One) hay Linh Hồn Tối cao (Oversoul)

Nhất nguyên luận trung tính.

Nhất nguyên luận trung tính trong triết học là quan điểm siêu hình rằng ý thức và vật chất là hai cách để tổ chức triển khai hay để miêu tả cùng những nguyên tố, mà bản thân chúng ” trung tính “, nghĩa là không niềm tin mà cũng chẳng vật chất. Quan điểm này phủ nhận rằng niềm tin và vật chất là hai dạng khác nhau một cách cơ bản. Thay vì vậy, nhất nguyên luận công bố rằng thiên hà chứa chỉ một loại vật liệu, dưới dạng những nguyên tố trung tính. Các nguyên tố này phải có những thuộc tính như sắc tố và hình dạng, hệt như tất cả chúng ta thưởng thức những thuộc tính này. Nhưng những yếu tố có sắc tố và hình dạng không sống sót trong niềm tin ( được xem như một thực thể cốt yếu, có tính nhị nguyên hoặc duy vật lý ) ; chúng sống sót tự thân .

Phê phán ngôn từ về yếu tố tâm-vật.

Mỗi nỗ lực vấn đáp yếu tố tâm-vật đều gặp phải những yếu tố cơ bản. Một số triết gia cho rằng điều này là do có sự mơ hồ khái niệm cơ bản [ 58 ]. Các triết gia này, như Ludwig Wittgenstein và những người tiếp nối ông trong truyền thống lịch sử phê phán ngôn từ, cho nên vì thế vô hiệu yếu tố này vì cho rằng nó là phi thực tiễn [ 59 ]. Họ lập luận rằng người ta đã sai lầm đáng tiếc khi hỏi làm thế nào những trạng thái sinh học và niềm tin gắn với nhau. Thay vì vậy, đơn thuần nên gật đầu rằng kinh nghiệm tay nghề con người hoàn toàn có thể được diễn đạt theo những cách khác nhau, ví dụ điển hình theo một từ vựng niềm tin và một từ vựng sinh học. Những yếu tố phi thực tiễn phát sinh nếu người ta cố gắng nỗ lực diễn đạt cái này theo từ vựng của cái kia hay nếu từ vựng niềm tin được vận dụng vào những ngữ cảnh sai [ 59 ]. Chẳng hạn, đây là trường hợp của việc người ta tìm kiếm những trạng thái niềm tin của bộ não. Bộ não đơn thuần là ngữ cảnh sai để sử dụng từ vựng niềm tin — sự tìm kiếm những trạng thái ý thức của bộ não do đó là một sai lầm đáng tiếc phạm trù hoặc một loại nhầm lẫn trong lập luận [ 59 ] .Ngày nay, lập trường như vậy thường được tiếp thu bởi những người diễn giải Wittgenstein như Peter tin tặc [ 58 ]. Tuy nhiên, Hilary Putnam, người lập nên thuyết công dụng, cũng đã gật đầu lập trường cho rằng yếu tố tâm-vật là một yếu tố phi trong thực tiễn và cần được giải trừ theo phương pháp của Wittgenstein [ 60 ] .

Thuyết nội tại và thuyết ngoại tại.

Tinh thần cư trú ở đâu ? Nếu niềm tin là một loại hiện tượng kỳ lạ vật chất nào đó, nó phải sống sót ở một nơi nào đó. Có hai lựa chọn khả dĩ : hoặc tâm lý nằm trong thể xác ( thuyết nội tại ) hoặc tâm lý nằm bên ngoài thể xác ( thuyết ngoại tại ). Phổ quát hơn, hoặc tâm lý chỉ phụ thuộc vào vào những sự kiện và đặc tính xảy ra bên trong thể xác chủ thể, hoặc nó cũng phụ thuộc vào vào những yếu tố bên ngoài thể xác này .Những người đề xướng thuyết nội tại gắn với quan điểm rằng những hoạt động giải trí thần kinh là đủ để sản sinh ra ý thức. Những người theo thuyết ngoại tại lại cho rằng quốc tế bên ngoài cấu thành nên niềm tin theo một nghĩa nào đó .Thuyết ngoại tại phân tách thành một số ít nhánh. Các nhánh chính là những thuyết như ngoại tại ngữ nghĩa, ngoại tại nhận thức và ngoại tại hiện tượng kỳ lạ. Mỗi nhánh này lại hoàn toàn có thể phân loại tiếp theo việc chúng có liên hệ chỉ với nội dung hay phương tiện đi lại của ý thức .

Thuyết ngoại tại ngữ nghĩa (semantic externalism) cho rằng nội dung ngữ nghĩa của tinh thần được xác định hoàn toàn hay một phần bởi trạng thái của những sự việc bên ngoài thể xác chủ thể. Tư tưởng thế giới song sinh của Hilary Putnam là một ví dụ.

Thuyết ngoại tại nhận thức (cognitive externalism) là một tập hợp rộng rãi những quan điểm đề xuất về vai trò của môi trường, các công cụ, sự phát triển, và của thể xác trong sự kích thích nhận thức. Nhận thức biểu hiện, trí tuệ mở rộng, và thuyết biểu hiện là những tư tưởng tiêu biểu của nhánh này.

Trong khi đó, thuyết ngoại tại hiện tượng kỳ lạ yêu cầu rằng những góc nhìn hiện tượng kỳ lạ của niềm tin nằm bên ngoài thể xác. Các tác giả ủng hộ năng lực này gồm có Ted Honderich, Edwin Holt, Francois Tonneau, Kevin O’Regan, Riccardo Manzotti, Teed Rockwell .

Tự nhiên luận và những yếu tố của nó.

Luận đề chính của chủ nghĩa duy vật lý là ý thức là một phần của quốc tế vật chất ( hay vật lý ). Lập trường như vậy phải đối lập với yếu tố là niềm tin có những thuộc tính nhất định mà không một sự vật vật chất nào khác có được. Do đó chủ nghĩa duy vật lý phải lý giải làm thế nào mà những thuộc tính này lại Open từ những sự vật vật chất được. Công cuộc cung ứng một cách lý giải như vậy thường được gọi với tên ” tự nhiên hóa niềm tin “, hay ” tự nhiên luận về niềm tin ” [ 46 ]. Trong số những yếu tố chủ chốt mà công cuộc này nỗ lực xử lý gồm có sự sống sót của cảm thụ tính và thực chất của tính chủ định [ 46 ] .

Cảm thụ tính.

Nhiều trạng thái niềm tin có vẻ như được những cá thể khác nhau trải qua theo cách chủ quan bằng những phương pháp khác nhau [ 27 ]. Và một trạng thái ý thức được đặc trưng bởi ” phẩm chất ” có tính kinh nghiệm tay nghề nào đó, ví dụ điển hình như nỗi đau, nó gây đau đớn. Tuy nhiên, cảm xúc đau giữa hai cá thể hoàn toàn có thể không giống hệt, do tại không ai có cách hoàn hảo nhất nào để đo liệu một điều gây đau đớn bao nhiêu hay diễn đạt đúng chuẩn nó gây đau đớn như thế nào. Các nhà khoa học và triết gia do đó đặt câu hỏi những kinh nghiệm tay nghề này đến từ đâu. Sự sống sót những sự kiện bộ não không hề lý giải tại sao chúng đi kèm với những kinh nghiệm tay nghề định tính tương ứng này. Câu đố về việc tại sao nhiều quy trình trong não xảy ra với góc nhìn có tính kinh nghiệm tay nghề kèm theo trong nhận thức có vẻ như không hề lý giải [ 25 ] .Tuy nhiên so với nhiều người thì khoa học ở đầu cuối sẽ lý giải được những kinh nghiệm tay nghề như thế [ 46 ]. Điều này dẫn ra từ một giả thiết về năng lực của những cách lý giải quy giản. Theo quan điểm này, nếu một nỗ lực hoàn toàn có thể thành công xuất sắc trong việc lý giải một hiện tượng kỳ lạ quy giản ( ví dụ, nước ), thì hoàn toàn có thể lý giải được tại sao mọi thuộc tính của nó ( ví dụ như tính lỏng, tính trong suốt ) [ 46 ]. Trong trường hợp những trạng thái ý thức, điều này có nghĩa là cần một sự lý giải tại sao chúng có thuộc tính là được thưởng thức theo một cách nào đó .Triết gia Đức ở thế kỉ 20 Martin Heidegger phê phán những giả thiết bản thể làm nền tảng cho một quy mô quy giản như vậy, và công bố rằng không hề hiểu được kinh nghiệm tay nghề theo những lối này. Đó là do tại, theo Heidegger, thực chất của kinh nghiệm tay nghề chủ quan và những ” phẩm chất ” là không hề hiểu theo khái niệm những ” thực thể ” của truyền thống lịch sử triết học từ Descartes – thứ tiềm ẩn những ” thuộc tính “. Một cách khác để diễn đạt điều này là chính ý niệm về kinh nghiệm tay nghề định tính là không ngặt nghèo theo – hoặc là không so sánh được về ngữ nghĩa với – những thực thể tiềm ẩn những thuộc tính [ 61 ] .

Vấn đề giải thích khía cạnh nội quan ngôi thứ nhất của các trạng thái tinh thần và ý thức nói chung theo khoa học thần kinh có tính định lượng ngôi thứ ba được gọi là khoảng cách diễn giải (explanatory gap)[62]. Có một số quan điểm khác nhau về khoảng cách này giữa các nhà triết học tinh thần hiện đại. David Chalmers và Frank Jackson diễn tả khoảng cách này về bản chất có tính bản thể; có nghĩa là, họ khẳng định rằng các cảm thụ tính không bao giờ có thể giải thích bằng khoa học bởi vì chủ nghĩa duy vật lý là sai lầm. Tồn tại hai phạm trù riêng biệt và cái này không thể quy giản về cái kia[63]. Một quan điểm khác đưa ra bởi những nhà triết học như Thomas Nagel và Colin McGinn. Theo họ, khoảng cách về bản chất có tính nhận thức. Đối với Nagel, khoa học chưa thể giải thích các kinh nghiệm chủ quan bởi vì nó chưa đạt tới trình độ hay loại tri thức cần thiết. Chúng ta thậm chí còn chưa thể phát biểu vấn đề một cách chặt chẽ[27]. Còn đối với McGinn, vấn đề này là một trong những giới hạn sinh học thường trực và cố hữu. Chúng ta không thể giải quyết khoảng cách diễn giải bởi vì lãnh địa của các kinh nghiệm chủ quan bị đóng về mặt nhận thức đối với chúng ta theo cùng cách mà cơ học lượng tử đóng lại đối với những con voi[64]. Các triết gia khác lấp đầy khoảng cách này thuần túy bằng việc xem đó là một vấn đề ngữ nghĩa. Vấn đề ngữ nghĩa, dẫn tới “Câu hỏi cảm thụ tính” nổi tiếng, đó là: Liệu Đỏ gây ra Màu Đỏ (Does Red cause Redness)?

Tính chủ định.

Tính chủ định là năng lực của những trạng thái niềm tin được xu thế hoặc liên hệ với thứ gì đó ở quốc tế bên ngoài [ 23 ]. Thuộc tính này của những trạng thái ý thức yên cầu rằng chúng có những nội dung và những thứ ám chỉ ngữ nghĩa, và do đó hoàn toàn có thể được gán cho những giá trị chân lý. Khi người ta cố gắng nỗ lực quy giản những trạng thái về những quy trình tự nhiên ở đó phát sinh một yếu tố : những quy trình tự nhiên không đúng hay sai, chúng đơn thuần xảy ra [ 65 ]. Sẽ là không có ý nghĩa để nói rằng một quy trình tự nhiên là đúng hay sai. Nhưng những ý tưởng sáng tạo hoặc phán đoán niềm tin là đúng hoặc sai, do đó những trạng thái ý thức ( sáng tạo độc đáo hoặc phán đoán ) hoàn toàn có thể là những quy trình tự nhiên ? Khả năng gán giá trị ngữ nghĩa cho những sáng tạo độc đáo phải có nghĩa rằng những sáng tạo độc đáo như vậy phải về những sự kiện nào đó. Do đó, ví dụ điển hình, ý tưởng sáng tạo rằng Herodotus là một sử gia liên hệ tới Herodotus và tới sự kiện rằng ông ấy là một sử gia. Nếu sự kiện là đúng, thì ý tưởng sáng tạo là đúng ; nếu không, thì ý tưởng sáng tạo sai. Tuy nhiên mối quan hệ này đến từ đâu ? Trong bộ não, chỉ có những quy trình điện hóa và chúng có vẻ như chẳng có gì tương quan tới Herodotus [ 22 ] .

Triết học niềm tin và khoa học.

Con người là những sinh vật hữu hình và, như vậy, họ là chủ thể cho việc kiểm tra và miêu tả bởi những khoa học tự nhiên. Bởi vì những quy trình niềm tin liên hệ ngặt nghèo với những quy trình thể xác, những sự diễn đạt mà những khoa học tự nhiên cung ứng về loài người đóng một vai trò quan trọng trong triết học niềm tin [ 2 ]. Có nhiều nghành nghề dịch vụ khoa học mà quy trình điều tra và nghiên cứu tương quan tới ý thức. Danh sách những ngành khoa học như vậy gồm có : sinh học, khoa học máy tính, khoa học nhận thức, tinh chỉnh và điều khiển học, ngôn ngữ học, y học, dược lý học và tâm lý học [ 66 ] .

Sinh học thần kinh.

Nền tảng kim chỉ nan của sinh học, trong khuôn khổ khoa học tự nhiên tân tiến nói chung, về cơ bản có tính duy vật. Mục đích của việc điều tra và nghiên cứu trước hết là những quy trình thể xác, vốn được xem là nền tảng của những hoạt động giải trí và hành vi ý thức [ 67 ]. Thành công ngày càng tăng lên của sinh học trong việc lý giải những hiện tượng kỳ lạ ý thức hoàn toàn có thể được thấy bởi sự vắng bóng của bất kể sự bác bỏ thực nghiệm nào so với giả định nền tảng của nó : ” không hề có sự biến hóa trong những trạng thái ý thức một người mà thiếu sự đổi khác trong bộ não ” [ 66 ] .Trong nghành nghề dịch vụ sinh học thần kinh, có nhiều ngành gắn với những mối liên hệ giữa những trạng thái và quy trình niềm tin và thể xác [ 67 ] : sinh lý học thần kinh giác quan điều tra và nghiên cứu mối liên hệ giữa những quy trình nhận thức và kích thích [ 68 ]. Khoa học nhận thức nghiên cứu và điều tra đối sánh tương quan giữa những quy trình ý thức với những quy trình thần kinh [ 68 ]. Tâm lý học thần kinh miêu tả sự nhờ vào của những năng lượng niềm tin trong những vùng não bộ chuyên biệt [ 68 ]. Cuối cùng, sinh học tiến hóa điều tra và nghiên cứu nguồn gốc và sự tăng trưởng của mạng lưới hệ thống não người và, vì đây là cơ sở của ý thức, cũng diễn đạt sự tăng trưởng phát sinh thành viên và phát sinh chủng loài của những hiện tượng kỳ lạ ý thức khởi đầu từ những trạng thái nguyên thủy nhất của chúng [ 66 ]. Hơn nữa sinh học tiến hóa áp đặt những ràng buộc ngặt nghèo lên bất kể học thuyết triết học niềm tin nào, do chính sách dựa vào gen của tinh lọc tự nhiên không được cho phép bất kể sự nhảy vọt khổng lồ nào trong sự tăng trưởng của tính phức tạp thần kinh hay ứng dụng thần kinh mà chỉ được cho phép những bước đổi khác trong thời hạn dài [ 69 ] .
Từ những năm 1980, những quy trình tiến độ chụp ảnh não, ví dụ điển hình như fMRI ( hình trên ) đã cung ứng những kiến thức và kỹ năng mới về hoạt động giải trí của não người, rọi ánh sáng vào những yếu tố triết học xưa cũ .

Khoa học máy tính.

Khoa học máy tính tương quan tới việc giải quyết và xử lý tự động hóa thông tin ( hoặc tối thiểu với những mạng lưới hệ thống hình tượng mà thông tin được gán cho ) trải qua những thiết bị như máy tính [ 70 ]. Từ khởi đầu, những lập trình viên máy tính hoàn toàn có thể tăng trưởng những chương trình được cho phép máy tính thực thi những trách nhiệm mà những tổ chức triển khai hữu cơ ( sinh vật ) cần một ý thức. Một ví dụ đơn thuần là phép nhân. Nhưng rõ rằng là máy tính không sử dụng một niềm tin nào để nhân cả. Liệu một ngày nào đó chúng hoàn toàn có thể có thứ mà tất cả chúng ta gọi là một niềm tin ? Câu hỏi này đã được đẩy tới tiền tuyến của những nhiều cuộc tranh luận triết học bởi những nghiên cứu và điều tra trong nghành nghề dịch vụ trí tuệ tự tạo ( artificial intelligence-AI ) .Trong nghành AI, người ta thường phân biệt một chương trình điều tra và nghiên cứu nhã nhặn và một chương trình tham vọng hơn : sự phân biệt này được đề xướng bởi John Searle thành AI yếu và AI mạnh. Mục tiêu độc nhất của ” AI yếu “, theo Searle, là sự mô phỏng thành công xuất sắc những trạng thái ý thức, mà không có nỗ lực biến máy tính trở nên có ý thức hay nhận thức, v.v.. Trái lại, tiềm năng của AI mạnh là một máy tính với nhận thức tựa như như của con người [ 71 ]. Người ta hoàn toàn có thể truy nguyên nguồn gốc của AI mạnh tới một trong những nhà tiên phong trong nghành nghề dịch vụ điện toán là Alan Turing. Với câu vấn đáp cho câu hỏi ” Máy tính hoàn toàn có thể tâm lý không ? “, ông đã thiết lập phép thử Turing nổi tiếng [ 72 ]. Turing tin rằng một máy tính hoàn toàn có thể được cho là tâm lý khi, nếu được đặt trong một phòng kế bên một phòng khác chứa một con người và với cùng những câu hỏi như nhau đưa ra cho con người và máy tính bởi một người thứ ba ở bên ngoài, những câu vấn đáp của máy tính trở nên không hề phân biệt với những câu vấn đáp của con người. Chủ yếu, quan điểm của Turing về trí tuệ máy móc tuân theo quy mô thuyết hành vi của niềm tin – trí tuệ là cái mà trí tuệ làm. Phép thử Turing nhận nhiều chỉ trích, một trong số đó là thí nghiệm tâm lý ” Phòng Nước Trung Hoa ” của Searle [ 71 ] .Câu hỏi về tính hoàn toàn có thể cảm nhận ( cảm thụ tính ) của máy tính hay robot vẫn còn đó. Một số nhà khoa học máy tính tin rằng nét đặc biệt quan trọng của AI vẫn hoàn toàn có thể tạo ra những góp phần mới cho giải pháp của yếu tố tâm-vật. Họ yêu cầu rằng dựa trên ảnh hưởng tác động tương hỗ giữa phần cứng và ứng dụng xảy ra trong mọi máy tính, hoàn toàn có thể một ngày nào đó những triết lý hoàn toàn có thể được mày mò để giúp tất cả chúng ta hiểu được tác động ảnh hưởng tương hỗ giữa niềm tin con người và bộ não [ 73 ] .

Tâm lý học.

Tâm lý học là khoa học nghiên cứu và điều tra trực tiếp những trạng thái ý thức. Nó thường sử dụng những chiêu thức thực nghiệm để khảo sát những trạng thái niềm tin đơn cử như niềm vui, nỗi sợ hay sự ám ảnh. Tâm lý học điều tra và nghiên cứu những quy luật link những trạng thái ý thức này với nhau hoặc với nguồn vào và đầu ra của những cơ quan khung hình người [ 74 ] .Một ví dụ cho điều này là tâm lý học nhận thức. Các nhà khoa học trong nghành này đã tò mò những nguyên tắc chung về nhận thức hình thái. Một quy luật của tâm lý học hình thái nói rằng những đối tượng người tiêu dùng chuyển dời theo cùng hướng được nhận thức là liên hệ với nhau [ 66 ]. Quy luật này miêu tả mối quan hệ giữa nguồn vào thị giác với những trạng thái nhận thức niềm tin. Tuy nhiên, nó không yêu cầu điều gì về thực chất những trạng thái ý thức. Các quy luật được tò mò bởi tâm lý học thích hợp với toàn bộ những câu vấn đáp so với yếu tố tâm-vật đã được miêu tả .

Khoa học nhận thức.

Khoa học nhận thức là những điều tra và nghiên cứu khoa học liên ngành về niềm tin và những quy trình ý thức. Nó xem xét ý thức là gì, ý thức làm gì, và nó hoạt động giải trí thế nào. Nó gồm có những nghiên cứu và điều tra về trí tuệ và hành vi, đặc biệt quan trọng tập trung chuyên sâu vào việc làm thế nào thông tin được trình diễn, giải quyết và xử lý và đổi khác ( trong những năng lượng như nhận thức, ngôn từ, trí nhớ, lập luận và cảm hứng ) bên trong mạng lưới hệ thống não ( người hay động vật hoang dã khác ) và trong máy móc ( ví dụ máy tính ). Khoa học nhận thức phối hợp nhiều nghành nghề dịch vụ nghiên cứu và điều tra, gồm có tâm lý học, trí mưu trí tự tạo, triết học, khoa học thần kinh, ngôn ngữ học, nhân học, xã hội học, và giáo dục [ 75 ]. Nó cũng liên kết nhiều mức độ nghiên cứu và phân tích, từ mức thấp như việc học tập và chính sách ra quyết định hành động tới cả cao như logic và lập kế hoạch ; từ mạch thần kinh tới tổ chức triển khai vùng não .

Triết học niềm tin trong truyền thống lịch sử lục địa.

Hầu hết bàn luận trong bài viết này đã tập trung chuyên sâu vào một loại hay một truyền thống lịch sử triết học được xem là chủ lưu trong văn hóa truyền thống phương Tây tân tiến, thường được gọi là triết học nghiên cứu và phân tích ( có lúc được gọi là triết học Anh-Mĩ ) [ 76 ]. Nhiều phe phái tư tưởng khác cũng sống sót, chúng đôi lúc được gộp vào một tên gọi chung là triết học lục địa [ 76 ]. Trong bất kể trường hợp nào, mặc dầu những chủ đề và chiêu thức là rất nhiều, trong mối liên hệ với triết học ý thức những phe phái khác nhau ( hiện tượng kỳ lạ học, chủ nghĩa hiện sinh … ) được gắn tên gọi này nhìn chung hoàn toàn có thể phân biệt với phe phái nghiên cứu và phân tích bởi việc chúng tập trung chuyên sâu ít hơn chỉ vào nghiên cứu và phân tích ngôn từ và logic riêng không liên quan gì đến nhau mà còn chăm sóc tới những hình thức khác của việc khám phá kinh nghiệm tay nghề và sự hiện hữu của con người. Trong khoanh vùng phạm vi bàn luận về ý thức, điều này được diễn dịch thành những nỗ lực chớp lấy những ý niệm về tâm lý và kinh nghiệm tay nghề nhận thức theo nghĩa không chỉ bao hàm sự nghiên cứu và phân tích về hình thức từ ngữ [ 76 ] .

Chẳng hạn, trong Hiện tượng học tinh thần, Hegel thảo luận ba dạng khác nhau của tinh thần: ‘tinh thần chủ quan’, tức tinh thần của một cá nhân; ‘tinh thần khách quan’, tinh thần của xã hội và nhà nước; và ‘tinh thần tuyệt đối’, một thể thống nhất của mọi quan niệm[77].

Hay trong “Tiểu luận về mối quan hệ giữa thể xác và tinh thần” của cuốn Vật chất và Trí nhớ năm 1896, Henri Bergson đưa ra một cách sinh động sự khác biệt bản thể của tinh thần và thể xác bằng sự quy giản vấn đề đó về một vấn đề xác định hơn của trí nhớ, do đó cho phép một giải pháp xây dựng trên phương thức kiểm tra thực nghiệm của chứng mất ngôn ngữ (aphasia).

Trong thời tân tiến, hai phe phái chính được tăng trưởng để đáp lại hoặc trái chiều lại truyền thống cuội nguồn Hegel là hiện tượng học và chủ nghĩa hiện sinh. Hiện tượng học, được tìm hiểu và khám phá bởi Edmund Husserl, tập trung chuyên sâu vào những nội dung của niềm tin con người và cách những quy trình mang tính hiện tượng kỳ lạ học hình thành lên kinh nghiệm tay nghề của tất cả chúng ta [ 78 ]. Chủ nghĩa hiện sinh, một phe phái tư tưởng khác xây dựng dựa trên khu công trình của Søren Kierkegaard, dựa trên nội dung của kinh nghiệm tay nghề và cách ý thức xử lý những kinh nghiệm tay nghề như vậy .

Triết học niềm tin trong Phật giáo.

Này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: “Thế nào là các hành và các hành này là của ai?”, hay này Tỷ-kheo, Ông có thể nói: “Các hành là khác và người có các hành này là khác”, hai câu hỏi này là một, chỉ có văn sai khác. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: “Sinh mạng và thân thể là một”, chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, chỗ nào có (tà) kiến: “Sinh mạng và thân thể là khác”, chỗ ấy không có Phạm hạnh trú. Này Tỷ-kheo, từ bỏ hai cực đoan này, Như Lai thuyết pháp theo trung đạo và nói: “Do duyên vô minh nên có các hành”.
( Kinh Do Duyên Vô Minh, Tương Ưng Bộ Kinh ) [ 79 ]

Các truyền thống phương Đông như Phật giáo không chủ trương mô hình nhị nguyên tinh thần-thể xác nhưng khẳng định rằng tinh thần và thể xác là những thực thể riêng biệt. Phật giáo đặc biệt không có khái niệm về linh hồn (ātman). Một số bộ phái Phật giáo khẳng định rằng có một mức rất tinh tế của tinh thần lìa khỏi thể xác vào thời điểm chết đi và nhập vào một sự sống mới. Theo luận sư Pháp Xứng (Dharmakirti), định nghĩa về tinh thần bao gồm sự trống rỗng (không) và nhận thức (thức). Tinh thần là trống rỗng bởi vì nó luôn thiếu hình thể và bởi vì nó sở hữu năng lực thực sự để nhận thức sự vật. Tinh thần là nhận thức bởi chức năng của nó là hiểu biết hay nhận thức sự vật. Trong định nghĩa này, ‘không’ liên hệ với bản chất tinh thần và ‘thức’ với chức năng của tinh thần. Pháp sư Khắc Châu Kiệt (Khedrupje) cho rằng tư tưởng, nhận thức, tinh thần và ý thức chỉ là những từ đồng nghĩa. Bản thân Đức Phật giải thích rằng mặc dù thiếu hình thể, tuy nhiên tinh thần có thể liên hệ với hình thể. Do đó, tinh thần chúng ta liên hệ với thể xác chúng ta và nó được ‘định vị’ ở những vị trí khác nhau trong khắp cơ thể. Điều này có thể được hiểu trong ngữ cảnh ý thức ngũ quan và ý thức tinh thần được sinh ra. Phật giáo nhắc đến nhiều dạng khác nhau của tinh thần – ý thức tri giác, ý thức tinh thần, tinh thần thô, tinh thần tinh tế, và tinh thần rất tinh tế – và chúng đều là vô hình thể (không hình dáng, màu sắc, âm thanh, mùi, vị hay thuộc tính xúc giác), đồng thời chúng đều vận hành để nhận thức hay hiểu biết. Không thể có cái gọi là tinh thần mà lại thiếu đối tượng được nhận biết bởi tinh thần đó. Mặc dù không loại tinh thần nào có hình thể, nhưng chúng có thể liên hệ với hình thể[80].

Các chủ đề tương quan tới triết học ý thức.

Có vô số chủ đề bị tác động ảnh hưởng bởi những ý tưởng sáng tạo tăng trưởng trong triết học ý thức. Những ví dụ rõ ràng nhất hoàn toàn có thể kể tới là thực chất của cái chết và những đặc thù xác lập nó, thực chất của cảm hứng, của tri giác và ký ức. Những câu hỏi về việc một người là gì và đậm chất ngầu của anh ta / cô ta gồm có những gì cũng liên hệ nhiều tới ngành triết học này. Tuy nhiên, có hai chủ đề mà, trong mối liên hệ với triết học niềm tin, gây lên một sự quan tâm đặc biệt quan trọng : ý chí tự do và cái tôi [ 2 ] .

Ý chí tự do.

Trong khuôn khổ của triết học ý thức, yếu tố ý chí đảm nhiệm một tầm mức được làm mới lại. Điều này tối thiểu cũng là chắc như đinh trong trường hợp tất định luận duy vật [ 2 ]. Theo quan điểm này, những quy luật tự nhiên trọn vẹn xác lập sự quản lý và vận hành của quốc tế vật chất. Các trạng thái ý thức, gồm có cả ý chí, chỉ là những trạng thái vật chất, điều này nghĩa là tổng thể những quyết định hành động và hành vi của con người được trọn vẹn xác lập bởi những quy luật tự nhiên. Một vài người đẩy lập luận này xa hơn : người ta không hề tự quyết định hành động cái gì họ muốn và cái gì họ làm. Hậu quả là, họ trọn vẹn không tự do [ 81 ] .Lập luận này bị bác bỏ, theo một cách, bởi thuyết thích hợp. Những người ủng hộ thuyết này cho rằng câu hỏi ” Chúng ta có tự do không ? ” chỉ hoàn toàn có thể được vấn đáp một khi tất cả chúng ta đã xác lập thuật ngữ ” tự do ” hàm chứa điều gì. Sự trái chiều với ” tự do ” không phải là ” bị sai khiến ” mà là ” bị cưỡng bách ” hoặc ” bị ép buộc “. Sẽ không tương thích nếu như nhau tự do với sự vô định. Một hành vi tự do là một hành vi ở đó tác nhân hoàn toàn có thể hành vi theo cách khác nếu nó được chọn theo cách khác. Theo nghĩa này một cá thể là tự do ngay cả khi tất định luận đúng [ 81 ]. Người theo thuyết thích hợp quan trọng nhất trong lịch sử vẻ vang triết học là David Hume [ 82 ]. Gần đây hơn, lập trường này vẫn được bảo vệ bởi 1 số ít nhân vật, ví dụ điển hình Daniel Dennett [ 83 ] .

Theo một cách khác, có những người theo thuyết bất tương thích bác bỏ lập luận của tất định luận bởi họ tin rằng ý chí là tự do theo một nghĩa mạnh hơn gọi là chủ nghĩa tự do[81]. Các triết gia này khẳng định rằng sự vận hành của thế giới hoặc là a) không hoàn toàn xác định bởi các quy luật tự nhiên, nơi quy luật tự nhiên bị chặn lại bởi các cơ quan độc lập về thể xác[84], b) được xác định chỉ bởi quy luật tự nhiên bất định, hoặc c) được xác định bởi các quy luật tự nhiên bất định đi đôi với nỗ lực chủ quan của cơ quan thể xác không quy giản được[85]. Theo chủ nghĩa tự do, ý chí không phải là tất định và do đó nó có khả năng tự do. Những người chỉ trích về luận điểm thứ hai (b) lên án những người theo thuyết bất tương thích về việc dùng một quan niệm không chặt chẽ. Họ lập luận như sau: nếu ý chí của chúng ta không được xác định bởi bất cứ thứ gì, thì chúng ta ham muốn điều ta ham muốn bằng cơ may thuần túy. Và nếu điều chúng ta mong muốn là thuần túy ngẫu nhiên, thì chúng ta không tự do. Vì thế nếu ý chí của chúng ta không được xác định bởi bất cứ điều gì, chúng ta không tự do[81].

Triết học về tinh thần cũng có những hệ quả quan trọng đối với quan niệm về cái tôi. Nếu đưa ý kiến về “cái tôi” hay “Tôi” mà người ta liên hệ với một hạt nhân cốt yếu, không thể thay đổi của “cá nhân”, hầu hết các nhà triết học tinh thần hiện đại sẽ khẳng định rằng không có thứ gì như thế tồn tại[86]. Ý tưởng về một cái tôi như một hạt nhân cốt yếu bất biến xuất phát từ ý tưởng về một linh hồn phi vật chất. Một ý tưởng như vậy là không thể chấp nhận với hầu hết các triết thuyết đương đại, do định hướng duy vật lý của chúng, và do sự chấp nhận rộng rãi giữa các trường phái về chủ nghĩa hoài nghi về quan niệm “cái tôi” bởi David Hume, người không bao giờ có thể nắm bắt được bản thân ông làm, nghĩ hay cảm thấy bất cứ điều gì[87]. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của các kết quả thực nghiệm từ tâm lý học phát triển, sinh học phát triển, tư tưởng về một hạt nhân cốt yếu nhưng có tính vật chất và không phải bất biến – một hệ thống đại diện tích hợp được phân bố trên sự thay đổi những mô hình các kết nối thần kinh—dường như là hợp lí[88]. Quan điểm xem cái tôi như một ảo giác được chấp nhận bởi một số triết gia, chẳng hạn Daniel Dennett.

Liên kết ngoài.

Exit mobile version