Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Toccata | Âm nhạc

Toccata, hình thức âm nhạc dành cho các nhạc cụ bàn phím, được viết theo phong cách tự do với đặc điểm là đầy đủ hợp âm, chạy nhanh, hòa âm cao và các yếu tố điêu luyện khác được thiết kế để thể hiện “cảm ứng” của người biểu diễn. Việc sử dụng thuật ngữ này sớm nhất (khoảng năm 1536) gắn liền với âm nhạc độc tấu đàn nguyệt của một nhân vật ngẫu hứng.

Koto.  Cận cảnh nhạc sĩ chơi đàn koto bằng gỗ (nhạc cụ, đàn dây, tiếng Nhật, đàn tranh gảy)

Britannica Quiz

Bạn đang đọc: Toccata | Âm nhạc

Ồ, Âm thanh đó là gì : Sự thật hay hư cấu ?
Bạn có biết đàn koto là gì không ? Đàn piano có phải là một loại nhạc cụ dây ? Từ việc gảy dây đến gõ phím, bạn chắc như đinh sẽ phải vò đầu bứt tai khi nghiên cứu và điều tra về nhạc cụ này .
Vào cuối thế kỷ 16 ở Venice, những nhà soạn nhạc như Giovanni Gabrieli vàClaudio Merulo đã viết những bản organ toccatas ( nhiều bản có tựa như Fantasia và Intonazione ), thường đạt được kỹ thuật điêu luyện hùng vĩ nhờ những đoạn quy mô hoa mỹ, trang trí, nhịp điệu không không thay đổi và hòa âm, biến hóa tâm trạng và tự do nhịp độ. Merulo đã khởi xướng thực hành thực tế thông dụng sau này là xen kẽ những đoạn fugal ( sử dụng mô phỏng giai điệu ) với những đoạn toccata nhanh. Ở Rome, Girolamo Frescobaldi ( mất năm 1643 ) đã sáng tác những bản nhạc toccatas gồm có những phần mang tính ngẫu hứng cao được xâu chuỗi lại với nhau một cách lỏng lẻo, được lưu lại bằng những đổi khác bất ngờ đột ngột trong cách hòa âm và hình tượng. Chúng được dự tính chơi với nhịp độ tự do và hoàn toàn có thể được trình diễn hàng loạt hoặc trong một hoặc nhiều phần. Học trò người Đức của Frescobaldi Johann Jakob Froberger là người truyền phong thái quan trọng cho Đức. Giống như người thầy của mình, Froberger thú vị với việc sử dụng những hòa âm sắc độ ( sử dụng những nốt khác với thể thức của bản nhạc ) ; và, giống như Merulo, anh ấy đặc trưng đặt một đoạn fugal tương phản giữa đoạn khởi đầu và đoạn kết theo kiểu toccata .

Các kề nhau của improvisatory và fugal đoạn-mà kháng nghị lên Niềm đam mê Baroque với sự phối hợp của những mặt trái chiều – đã trở thành một đặc thù điển hình nổi bật trong những tác phẩm của những nhà soạn nhạc organ ở Bắc Đức, mà đỉnh điểm là những tác phẩm của Dietrich Buxtehude và sau này là JS Bạch. Ví dụ, toccatas của Buxtehude, trái chiều với Frescobaldi, được định hình bởi một cấu trúc hình thức cơ bản. Hai, thậm chí còn ba, những phần fugal thường xen kẽ với những đoạn toccata, và những chủ đề fugue thường là những biến thể của mô típ cơ bản. Vào cuối thời kỳ Baroque, như trong một số ít tác phẩm của JS Bach, sự tích hợp của hai phong thái trái chiều thường có dạng một hoạt động tiên phong ngẫu hứng ( gọi là prelude, toccata, fantasia, v.v. ) sau đó là fugue, như trong Bạch ấy nổi tiếng Toccata và Fugue in D Minor, BWV 565, cho đàn organ. Toccata được đôi lúc sáng tác sau khi kỷ nguyên Baroque, một ví dụ đáng chú ý quan tâm là phần thứ ba của Claude Debussy bộPour le piano ( sáng tác 1896 – 1901 ) .

Thuật ngữ này cũng đề cập đến một sự phô trương theo nghi thức dành cho kèn và trống được chơi trong các dịp quan trọng của nhà nước từ cuối thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 18. Ví dụ nổi tiếng nhất là toccata mở đầu trong vở opera Orfeo (1607) của Claudio Monteverdi .

Nhận quyền truy cập độc quyền vào nội dung từ Phiên bản đầu tiên năm 1768 của chúng tôi với đăng ký của bạn.
Đăng ký ngay hôm nay

Exit mobile version