Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Tam tòng, tứ đức – Wikipedia tiếng Việt

Tam tòng, tứ đức là những quy định mang tính nghĩa vụ đối với phụ nữ phương Đông thời xưa xuất phát từ các quan niệm của Nho giáo.

Những tài liệu tiên phong nói về Tam tòng, Tứ đức.

Đề cập sớm nhất về tam tòng có thể là sách “Lễ ký”. Trong thiên “Giao đặc sinh” có khi chép: “Phụ nữ là phải theo người, lúc nhỏ theo cha theo anh, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con” (婦人,從人者也;幼從父兄,嫁從夫,夫死從子)[1]. Cũng trong “Lễ ký”, thiên “Hôn nghĩa” có chép: “Ngày xưa, phụ nữ trước khi lấy chồng ba tháng, nếu tổ miếu chưa hư hỏng, thì ra đó mà ở, nếu tổ miếu đã hư hỏng thì vào nhà của tông tộc ở. Dạy cho phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công (是以古者婦人先嫁三月,祖廟未毀,教於公宮,祖廟既毀,教於宗室,教以婦德、婦言、婦容、婦功)[2]. Song tứ đức thời này nhìn chung chỉ thực hiện trong phụ nữ quý tộc, tam tòng chỉ là trạng thái sinh tồn của phụ nữ nhà lương gia chứ không phải là khuôn phép nghiêm ngặt đối với tất cả mọi người phụ nữ.

Tứ đức là một giáo lý gắn bó hữu cơ với tam tòng. “Phụ hành đệ tứ” một chương trong sách “Nữ giới” giải thích về Tứ đức trong “Lễ ký”. “Nữ giới” là sách của Ban Chiêu thời Đông Hán. Ban Chiêu am hiểu kinh điển Nho gia, lại dạy dỗ hậu phi trong cung về phụ đức, kinh sử, vì thế hiểu rất rõ về những tấm gương phụ đức thời trước. Về đời tư, bà goá chồng rất sớm, nhiều năm thủ tiết. Với những kinh nghiệm và học vấn như vậy, bà đã viết “Nữ giới” để răn dạy các con gái. Bà không thể ngờ rằng “Nữ giới” lại trở thành quyển sách giáo khoa hàng đầu cho phụ nữ phong kiến hàng nghìn năm. Sách gồm bảy chương.

Tam tòng (三從) còn được đề cập trong sách Nghi lễ, Tang phục, Tử Hạ truyện: “Phụ nhân hữu tam tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử”: Phụ nữ có đạo tam tòng, không được phép tự chuyên, chưa lấy chồng thì theo cha, lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con (婦人有三從之義,無專用之道,故未嫁從父,既嫁從夫,夫死從子)[3]. Tứ đức (四德) còn được đề cập trong sách Chu lễ, Thiên quan trủng tể: “Cửu tần chưởng phụ học chi pháp, dĩ giáo cửu ngự: phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công”: Quan cửu tần quản việc dạy học cho phụ nữ, dạy quan cửu ngự (chín ngự nữ dưới quyền mình) phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công (九嬪掌婦學之法,以教九御:婦德、婦言、婦容、婦功)[4].

Về sau này, tam tòng, tứ đức thường được dùng để nói về bổn phận của phụ nữ trong gia đình, so với tam cương, ngũ thường là bổn phận ngoài xã hội, và bách hạnh là tiêu chuẩn đạo đức của nam giới thời Nho giáo.

  1. Tại gia tòng phụ (在家從父)[5]: người phụ nữ khi còn ở nhà phải nghe theo cha.
  2. Xuất giá tòng phu (出嫁從夫)[6]: lúc lấy chồng phải nghe theo chồng.
  3. Phu tử tòng tử (夫死從子): nếu chồng qua đời phải nghe theo con trai.

Quy định tam tòng khiến người phụ nữ khi xuất giá lấy chồng thì thực trạng tốt hay xấu thế nào cũng đã trở thành người nhà chồng, chứ không được nương nhờ ai nữa [ 7 ] .Tuy nhiên vào quy trình tiến độ sơ khai ” Tam tòng ” chỉ dùng để định vị trí của người phụ nữ trong mái ấm gia đình khi làm nghi lễ. Khi ở nhà thì đứng sau sống lưng cha, lấy chồng đứng sau sống lưng chồng, chồng chết đứng sau sống lưng con trai tức là người phụ nữ phải ở góa để thờ chồng và nuôi con .
Với người phụ nữ, tứ đức gồm phụ công ( 婦功 ), phụ dung ( 婦容 ), phụ ngôn ( 婦言 ) và phụ hạnh ( 婦行 ) [ 8 ] :

  1. Công: Việc nữ công, gia chánh phải khéo léo. Tuy nhiên các nghề với phụ nữ ngày xưa chủ yếu chỉ là may, vá, thêu, dệt, bếp núc, buôn bán, với người phụ nữ giỏi thì có thêm cầm kỳ thi họa.
  2. Dung: dáng người đàn bà phải hòa nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân
  3. Ngôn: lời ăn tiếng nói khoan thai, dịu dàng, mềm mỏng
  4. Hạnh: Tính nết hiền thảo, trong nhà thì nết na, kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em họ nhà chồng. Ra ngoài thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh, cay nghiệt[9].

Liên kết ngoài.

Exit mobile version