Site icon Nhạc lý căn bản – nhacly.com

Vương Hổ Ứng – Vương Lão Sư – Cổ Học Phương Đông – Cổ Học Phương Đông

Vương Hổ Ứng là chuyên gia nghiên cứu cao cấp về Bói Dịch Lục Hào. Bản thân ông không những giỏi sử dụng Lục Hào trong dự đoán mà còn đào tạo ra rất nhiều cao đồ về môn Bói Dịch Lục Hào….

Vương Hổ Ứng Tiểu Sử

Vương Hổ Ứng - Vương Lão Sư - Cổ Học Phương Đông - Cohoc.vn

Vương Hổ Ứng sinh năm 1962, nguyên quán ở tỉnh Sơn Tây. Ông là một chuyên gia Dịch học nổi tiếng trên thế giới. Ông là Dịch tác gia (tác giả về sách Kinh Dịch), là truyền nhân bát trạch dịch trận phong thủy. Ông cũng là giảng viên thỉnh giảng của đại học Thanh Hoa, cố vấn cao cấp của sở nghiên cứu Nhật Bản và là tác giả của Lục Hào Chiêm Thuật Nhật Bản.

Năm 1986, Vương Hổ Ứng tốt nghiệp đại học Sơn Tây về chuyên ngành tiếng Nhật. Trong thời gian đầu, ông đảm nhiệm công tác nghiên cứu khảo cổ ở tỉnh Sơn Tây. Về sau, ông dấn thân vào nghiên cứu phong thủy, tướng thuật, mệnh lý, Phật học, Trung y và thuật luyện đan.

Những năm 80, ông khởi đầu chuyên tâm điều tra và nghiên cứu Kinh Dịch, lấy tử vi & phong thủy, lục hào và thuật dưỡng sinh của Đạo gia làm trọng điểm điều tra và nghiên cứu. Ông đã vận dụng nguyên lý Dịch học để giải thuật những huyền bí và cát hung trong logo công ty, đồng thời cũng đã tư vấn cho rất nhiều công ty nổi tiếng trong và ngoài nước .

Từ năm 1996, Vương lão sư mở màn khám phá những thuật số dân gian từ rất nhiều kỳ nhân trong cả nước. Từ đó, ông đã sáng lập ra một mạng lưới hệ thống lý luận hoàn hảo của mình. Ông cũng đã từng nhận lời mời đến giảng dạy ở Nước Singapore, Nhật Bản, … Hàng năm, ông được những công ty mời đến giảng dạy về quốc học ( Kinh Dịch ). Ông có học viên ở khắp Trung Quốc đại lục, đặc khu hành chính Hồng Kông, Nước Singapore, Nhật Bản, Nước Hàn, Mỹ, Anh, Malaysia, …
Tác phẩm hầu hết đã xuất bản :

  • Ở Nhật Bản : Bát Trạch Dịch Trận Phong Thủy, Lục Hào Chiêm Thuật Áo Nghĩa, Lục Hào Chiêm Thuật Cải Vận Pháp, Sinh Hoạt Trung Đích Lục Hào Chiêm Thuật, Thần Kỳ Ứng Nghiệm Đích Lục Hào Chiêm Thuật, Ngoại Ứng Dự Trắc, Lục Hào Dự Trắc Tam Ma Địa, …
  • Ở Hồng Kông : Lục Hào Quái Lệ Thuyết Chân, Lục Hào Dự Trắc Tật Bệnh Tân Thám .
  • Ở Nước Singapore : Tăng San Bốc Dịch Bình Thích, Lục Hào Quái Tượng Giải Mật, Lục Hào Nghi Hoặc Chỉ Mê, Lục Hào Dự Trắc Ngộ Trung Ngộ, Lục Hào Phân Loại Chiêm Nghiệm Kỹ Pháp, Lục Hào Dự Trắc Tự Tu Bảo Điển, Lục Hào Trắc Bệnh Phân Khoa Tường Giải .
  • Ở Đài Loan : Tế Thuyết Lục Hào Dự Trắc Học, Lục Hào Tật Bệnh Dự Trắc Học, Lục Hào Nhân Duyên Dự Trắc Học, Sơ Học Lục Hào Dự Trắc .
  • Ở Nước Ta, ông được biết đến đã lâu, nhưng hầu hết là từ nguyên tác tiếng Trung qua ứng dụng google dịch. Hiện nay, bộ sách của Vương Hổ Ứng được nhiều dịch giả của Nước Ta dịch từ nguyên tác tiếng Trung với ngôn từ chau truốt, những ví dụ về hình ảnh của quái quẻ cẩn trọng dễ nhìn .

Ở thời gian hiện tại, đã dịch được 9 cuốn gồm : Tăng San Bốc Dịch Bình Thích, Lục Hào Tật Bệnh Dự Trắc Học, Lục Hào Nhân Duyên Dự Trắc Học, Lục Hào Xu Cát Tị Hung Hoá Giải Bí Truyền, Lục Hào Phong Thuỷ Dự Trắc Học, ..

Mời các bạn tham khảo thêm tại : Sách Vương Hổ Ứng

Vương Hổ Ứng Đáp Nghĩa

Với 9 quyển sách của Vương Hổ Ứng được xuất bản, trong đó là trình diễn rất rõ những kiến thức và kỹ năng luận đoán rất là cơ bản và thường quy. Tuy nhiên như Vương Hổ Ứng đại sư đã nói, phải vận dụng linh động trong quy trình luận đoán mà không được máy móc .
Tuy đã có cuốn Tăng San Bốc Dịch Bình Thích bình chú lại những luận đoán sai lầm đáng tiếc của những bậc tiền nhân nhưng vẫn có sự xích míc không hề nhẹ làm cho người học Dịch vẫn cảm thấy khá mông lung và lạc vào mê hồn trận .
Vương Hổ Ứng Đáp Nghĩa là loạt bài về những vướng mắc về những yếu tố thường Open khi luận đoán để mọi người hoàn toàn có thể từ đó hoàn toàn có thể tìm được những lý giải cho mình .

Nguyệt hợp vượng và quẻ lưu niên kiêm đoán

Sách Tăng San Bốc Dịch Bình Thích – Chương 3, trang 19 .

Ngày Bính Ngọ tháng Dần.


Một người cầm quẻ lưu niên này hỏi cát hung con cái, hơn 80 cao thủ lục hào nổi tiếng đều đoán hung, mà chỉ riêng mình Vương lão sư đoán cát.

Trong sách đoán : Tử Tôn có Nguyệt hợp là vượng, tuy có hai tầng Phụ Mẫu đến khắc nhưng được Huynh động thông quan ( tạo thành thế liên tục tương sinh ), vì thế không sao .

Hỏi: Tử Tôn hợp vượng có thể hiểu, nhưng hai thổ đến khắc, một Huynh sao có thể thông quan? Hơn nữa Huynh Đệ ở mùa xuân hưu tù, Nguyệt phá, Nhật khắc, đã bị tổn thương gốc rễ, sao có thể thông quan?

Tôi hoàn toàn có thể hiểu như thế này hay không : Quẻ niên vận, khi xem vượng suy biểu lộ thực trạng ngay lúc đó, ngay lúc gieo quẻ người không sao, như vậy thực trạng của Nguyên thần cho biết sẽ tốt đẹp, do đó mà không sao ?

Đáp: Quẻ này mấu chốt là Tử Tôn được Nguyệt hợp mà được vượng, nếu không biết thuyết Nguyệt hợp vượng thì rất khó lý giải điểm này. (PS: Lưu ý, Nguyệt hợp là vượng có khí-chủ về Lý, nhưng Nhật Hợp thì đa phần chủ về vướng chân,…-chủ về Tượng)

Hỏi: Nguyệt hợp là vượng thì tôi có thể hiểu. Nhưng đoán con cháu là chuyện lâu dài, vẫn phải xem Nguyên thần chứ, có phải là tôi phân tích về Nguyên thần không thích hợp? Hơn nữa Dụng thần vượng tướng, nhưng Nguyên thần bị thương, đó cũng là không cát chứ?

Ở trường hợp kiêm đoán, chỉ xem Dụng thần, những cái khác như Nguyên thần hoàn toàn có thể lấy tượng phải không ?

Đáp: Đây không phải là tình huống đoán suốt đời của con cái, mà là đoán từ trong quẻ lưu niên. Vì vậy trọng điểm tại Dụng thần, nếu chỉ chuyên dự đoán bệnh tật của con cái thì Nguyên thần rất quan trọng.

Hỏi: Thân kim động mà thông quan hào Phụ Mẫu khắc Tử Tôn, trong quẻ Phụ Mẫu lưỡng động mà chỉ có một Thân kim thông quan, xin hỏi một Thân kim này có thể thông quan hai thổ khắc thủy hay không?

Đáp: Vấn đề này đã có người hỏi, đây là quẻ lưu niên, quẻ lưu niên lấy cát hung của hào Thế làm trung tâm, không phải là hào Tử Tôn, nhưng lúc đó người xem quẻ nói con ông ta sắp gặp hung, do đó mới bảo tôi phán đoán.

Nếu quẻ này chỉ chuyên đoán cát hung của đứa con thì cách xem sẽ khác. Mức độ phán đoán của chuyên đoán và kiêm đoán là khác nhau. Chỉ cần Dụng thần có khí thì hoàn toàn có thể chống lại thiên binh vạn mã, nhưng nếu hỏi cát hung của con cháu mà Dụng thần vô khí, khắc nhiều sinh ít thì Nguyên thần cũng không hề cứu. ( PS : Cái này có tương quan đến Dụng thần có nền tảng, sẽ được trình diễn ở bài sau. )
Phán đoán của lần gieo quẻ thứ nhất và lần gieo quẻ thứ hai có sự độc lạ vi diệu. Một quẻ đoán nhiều việc, việc chính có sự độc lạ về mức độ so với việc kiêm hỏi. Hỏi xong một việc, lại hỏi một việc khác, phán đoán Dụng thần suy vượng của quẻ gieo ra cũng có sự độc lạ .

Tham hợp vong sinh hay tham hợp vong sinh ?

Sách Tăng San Bốc Dịch Bình Thích – Chương 9, trang 36 .

Ngày Mậu Thân Tháng Thìn, xem cha bệnh gần, được Càn biến Phong Thiên Tiểu Súc.

Có người mang quẻ này đến hỏi ta rằng : “ Bệnh gần gặp xung sẽ khỏi, quẻ này là quẻ lục xung, thế nhưng cha tôi bệnh rất nặng, nhờ ông xem giúp đến ngày nào sẽ khỏi bệnh ? ”
Ta đáp rằng : “ Quẻ này có tổng số ba hào Phụ Mẫu Thìn thổ, Mùi thổ, Tuất thổ, cần chọn hào vượng tướng làm Dụng thần. Nay có Phụ Mẫu Thìn thổ gặp Nguyệt kiến, vậy lấy hào Thìn thổ làm Dụng thần. Bệnh đang rất nặng, là vì Nhật thần xung Dần mộc khiến Dần mộc ám động khắc Thìn thổ. ”
Người này bèn hỏi : “ Trong quẻ này Ngọ hỏa phát động, Dần mộc tuy ám động nhưng lại sinh ra Ngọ hỏa, để Ngọ hỏa sinh thổ. Trong sách xưa có viết : Kỵ thần và Nguyên thần cùng động, thì sẽ được hai sinh. Nhưng nay ông chỉ chăm sóc đến Dần mộc khắc Thìn thổ, mà không nói đến Ngọ hỏa sinh Thìn thổ, là tại sao ? ”

Ta bèn đáp rằng: “Ngọ hỏa tuy động hóa thành Mùi thổ, nhưng Ngọ lại hợp với Mùi, Ngọ hỏa tham hợp mà quên không sinh Thìn thổ, nên ở đây Thìn thổ chỉ bị khắc bởi Dần mộc, mà không được Ngọ hỏa tương sinh. Bởi vậy mà bệnh tình trầm trọng, cần đợi đến ngày Sửu xung mất Mùi thổ, khi đó Ngọ hỏa không còn hợp để tham hợp, nên sẽ sinh mộc, tai họa sẽ lui.”
Quả nhiên đến ngày Sửu khỏi bệnh.

Hỏi: Quẻ này Vương tiên sinh chủ yếu phân tích thuyết tham hợp quên sinh.

“ Thiên kim phú ” có nói : Tham sinh tham hợp, hình xung khắc hại đều vong. Thuyết tham hợp quên sinh có vẻ như từ đây mà ra, nhưng ý nghĩa có sự trái ngược .
Hào biến hoàn toàn có thể sinh khắc xung hợp hào động ra nó, mà hào động không hề sinh khắc xung hợp hào biến, vì thế thực ra của động mà hóa hợp là hào biến hợp trú hào động, khiến cho nó không hề phát huy tính năng, quẻ này hào động Ngọ hỏa là hào bị động. Mà theo phép tham hợp quên sinh thì hào động Ngọ hỏa là dữ thế chủ động .
Một số phiên bản Tăng San Bốc Dịch khác có sự tránh mặt loại quan điểm này .
Nói chung, tôi không hoài nghi cách lý giải thâm thúy của thầy Vương so với quẻ này, nhưng theo thiển ý của tôi thì “ bị hợp không sinh ” có vẻ như thỏa đáng hơn là “ tham hợp quên sinh ” .

Đáp: Thầy Vương Hổ Ứng cho rằng bị hợp không sinh và tham hợp quên sinh chỉ là sự khác nhau về cách biểu đạt. Hợp là vướng chân, bị vướng chân thì không thể sinh Dụng, xung khai liền có thể. Dùng “tham hợp quên sinh” là bởi vì sách cổ lưu truyền như vậy, nó đã là danh từ chuyên môn. Đã ngấm vào tiềm thức nên khó có thể thay đổi, chỉ cần hiểu bản chất là được.

Dụng thần lưỡng hiện thì chọn như thế nào ?

Ở ví dụ trên :

Hỏi: Xem bệnh của cha, chọn Dụng thần Thìn thổ, tại sao không chọn Tuất thổ Nguyệt phá? Trong Lục Hào Nhập Môn, thầy có nói là nếu hai Dụng thần an tĩnh thì chọn Nguyệt phá, xin thầy giải thích.

Đáp: Thông thường phải chọn hào Nguyệt phá. Nhưng quẻ này thuộc về một hào độc phát, vì vậy tiêu điểm ứng kỳ nằm ở hào độc phát, không dùng hào Nguyệt phá để xác định ứng kỳ. Điều này là vấn đề thần triệu cơ ở động.

PS : Quẻ Độc phát rất quan trọng, có 4 ý nghĩa : cát hung, ứng kì, nguyên do đặc thù của vấn đề, xem việc này ứng việc khác. Nên hoàn toàn có thể nói rằng độc phát có 1 ý nghĩa rất là quan trọng, chỉ tiếc rằng ở Nước Ta lúc bấy giờ đa số dùng quẻ giờ động tâm, mặc định là độc phát nên gần như rất ít có người hiểu hết ý nghĩa của Độc phát. Sẽ phải mất thời hạn để người học dịch hoàn toàn có thể hiểu được điều này .

Nguyên thần tự vượng ?

Sách Tăng San Bốc Dịch Bình Thích – Chương 10, trang 38

Hỏi: Trong Tăng San Bốc Dịch có nói:

Có năm loại Nguyên thần hoàn toàn có thể sinh Dụng thần :

  • Nguyên thần vượng tướng, hoặc lâm Nhật Nguyệt, hoặc được Nhật Nguyệt hào động sinh phù .
  • Nguyên thần động hóa hồi đầu sinh, hoặc động hóa Tiến thần .
  • Nguyên thần gặp Trường Sinh, Đế Vượng tại Nhật thần .
  • Nguyên thần và Kỵ thần đều động .
  • Nguyên thần vượng động, nhưng gặp Tuần Không, hóa Tuần Không .

Tôi có vướng mắc về câu tiên phong. Ý nghĩa của câu này phải là ba trường hợp :

  • Một là Nguyên thần tự thân vượng tướng .
  • Hai là Nguyên thần lâm Nhật Nguyệt .
  • Ba là Nguyên thần được Nhật Nguyệt hoặc hào động sinh phù .

Hai trường hợp sau thì tương đối dễ hiểu. Nhưng ở trường hợp tiên phong, tại sao Nguyên thần lại hoàn toàn có thể tự thân vượng tướng được nhỉ ?
Tôi cho rằng người xưa luôn viết sách rất cẩn trọng, tuyệt đối không viết ra những lời vô ích. Nhưng Dụng thần, Kỵ thần viết trong Tăng San cũng tựa như như vậy. Trong Bốc Phệ Chính Tông cũng nói giống như thế. Tất cả đều không có lý giải rõ ràng. Xin hỏi Vương lão sư, có phải là người xưa đã viết sai hay không, hay là trong đó vẫn còn giấu giếm huyền cơ ?

Đáp: Thầy Vương Hổ Ứng cho rằng cách biểu đạt như vậy là hơi thiếu chặt chẽ. Ở đây, Nguyên thần tự thân vượng tướng là chỉ Nguyên thần lâm Nhật Nguyệt. (PS: Tức là có khí ở Nhật Nguyệt chứ không đánh giá ở hào Động đến sinh phù, nếu khắc thương là hưu tù, nhưng gặp hào động đến sinh là được sinh – cho nên mới có thuyết Tuyệt xứ phùng sinh là vậy)

Ví dụ về không vong thứ nhất

Một quẻ của Vương Hổ Ứng lão sư: Ngày Bính Ngọ tháng Dần, học trò của tôi ở Nhật Bản muốn đến Trung Quốc, nhờ tôi dự đoán cát hung, được Giải biến Quy Muội.


Lấy hào Thế làm Dụng thần. Hào Thế Nguyệt khắc Nhật sinh, suy vượng tương đương. Hào sơ Dần mộc Huynh Đệ lâm Chu Tước động mà khắc Thế, hào sơ là cước lực, giữa đường đến Trung Quốc tất có chuyện khẩu thiệt, Dần mộc Không mà không khắc hào Thế, không phải là mình và người ta phát sinh khẩu thiệt, mà là giữa đường gặp phải người khác phát sinh khẩu thiệt. Hào Thế Tài bị khắc, tất có đồ vật bị tổn hại.

Kết quả: Khi ngồi taxi từ sân bay vào trong thành phố, tài xế taxi xảy ra khẩu thiệt với người khác, trong thời gian ở Trung Quốc laptop mang theo đã bị hỏng.

Thầy nói Dần mộc Không mà không khắc hào Thế, phải là mình và người ta phát sinh khẩu thiệt, mà là giữa đường gặp phải người khác phát sinh khẩu thiệt .

Hỏi: Tôi chưa hiểu chỗ Huynh Đệ Không mà không khắc hào Thế, hiện tại Không không khắc hào Thế, nhưng xuất Không thì khắc hào Thế chứ?

Đáp: Huynh Đệ lâm Chu Tước động, biểu thị khẩu thiệt, khắc Thế thì có khả năng phát sinh xung đột với mình, nhưng Không Vong nên không thể khắc, Không lại biểu thị sợ bóng sợ gió, vì vậy không phải là chuyện của mình. (PS: ví dụ về Không Vong có rất nhiều, không hẳn cứ hào Thế Không Vong là người hỏi không thật tâm, loạn tâm như 1 số group Kinh Dịch đang dùng, Không Vong chủ về tượng, còn áp dụng như thế nào thì đã có trong sách).

Ví dụ về Ứng Kỳ

Một quẻ của Vương Hổ Ứng lão sư: Ngày Quý Mão tháng Sửu, xem bệnh của vợ uống thuốc có khỏi được không, được quẻ Lâm biến Thái:

Ta đoán rằng : Hào Huynh Đệ động mà hóa Tiến thần, dù có thuốc tiên cũng khó cứu, người vợ ắt sẽ chết vào ngày Giáp Thìn. Trong quẻ này hào Huynh Đệ động, gặp Nguyệt kiến mà hóa Tuần Không, nhưng cũng không hề cho rằng là không tiến .

Hỏi: Thê Tài Nguyệt khắc, Tử ở Nhật, bệnh bất trị, theo thầy thì có thông tin ung thư hay không?

Kỵ thần độc phát, lâm Nguyệt phát động khắc Dụng, tượng không hề cứu chữa, sách dùng Tiến thần, ở đây hóa ra Thìn thổ là Tuần Không phải chăng là chủ ứng kỳ ? Bởi vì Thìn cũng là Mộ khố của Dụng thần ?

Đáp: Khi phán đoán, trước tiên phải xem căn cơ của Dụng thần, sau đó lại xem cát hung. Dụng thần lâm hào Ứng, Ứng là y dược, chứng tỏ đã uống thuốc. Nhưng Dụng thần Nguyệt khắc, Nhật không sinh phù, Tử ở Nhật, đồng thời Huynh Đệ phát động khắc Dụng thần, Kỵ thần độc phát, thần triệu cơ ở động, nhất định không tốt đẹp.

Huynh Đệ Sửu thổ lâm Nguyệt nhập hào hoàn toàn có thể ứng ngay trong tháng đó, Huynh Đệ hóa Không trong thời điểm tạm thời không hề khắc, cần phải xuất Không mới hoàn toàn có thể khắc được Tài, thế cho nên phải ứng tại ngày Thìn, đương nhiên ngày Thìn cũng là lúc Tài nhập Mộ. Khi phán đoán cát hung của một yếu tố hay phán đoán ứng kỳ, không phải chỉ xem một điểm mà phải tích hợp nhiều tổng hợp thông tin, nếu không thì tỷ suất đúng mực không cao .

(PS: Ứng kỳ là 1 chương khó, đòi hỏi phải luyện tập nhiều, mình đã có 1 bài viết về Ứng kỳ, xem tại đây)
Trân trọng

Ứng dụng 12 cung trường sinh

Hỏi: Thầy nói “Người xưa đã coi 12 cung trường sinh là căn cứ để phán đoán cát hung, trên thực tế đó là một nhận thức sai lầm. Vai trò của 12 cung trường sinh là dùng để thể hiện “tượng”, việc sử dụng để xem cát hung chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ có một hai phần trăm mà thôi”.

Xin thầy nêu ra ví dụ 12 cung trường sinh chủ cát hung cho kẻ hậu học được tăng thêm kiến thức và kỹ năng. Hóa Tuyệt hóa Mộ thì tôi đã gặp, còn Trường Sinh Đế Vượng thì chưa .
Đối với Sinh Vượng Mộ Tuyệt, mặc dầu không chủ cát hung của vấn đề, nhưng nó hoàn toàn có thể ảnh hướng đến cát hung hay không ? Ví dụ như xem tiền có tiền, đáng lẽ là được 100 nguyên, có phải là chính do hào Tài nhập Nhật Mộ mà chỉ được 80 nguyên ? Hay là chính bới hào Tài gặp Trường Sinh mà lại được 120 nguyên ?
Đối với Sinh Vượng Mộ Tuyệt, ví dụ chủ cát hung sự việc tuy không nhiều, nhưng quẻ có ứng kỳ vấn đề tại Sinh Vượng Mộ Tuyệt lại không ít, bởi lẽ “ cát đoán ứng cát, hung đoán ứng hung ”, đây có phải là mặt trái của Sinh Vượng Mộ Tuyệt đối với vượng suy của hào hay không, cát hung của vấn đề cũng phải có tác động ảnh hưởng chứ ?

Đáp: Tình huống mười hai cung trường sinh chủ cát hung thường thể hiện nhiều trong quẻ độc phát. Trường Sinh, Mộc Dục, Đế Vượng chủ cát; Tử, Mộ, Tuyệt chủ hung. Trong đó Mộ là ít xấu nhất, phải phối hợp với suy vượng của Dụng thần, Tử Tuyệt tương đối đáng sợ, kể cả khi Dụng thần vượng cũng không tốt.

Lời bàn: Tất cả đều không thoát khỏi hỷ kỵ của Dụng thần là lẽ đó. Lại nói Độc phát là 1 yếu tố rất quan trọng trong dự đoán lục hào. Mời đọc lại Đáp Nghĩa phần 2.

Phản ngâm, phục ngâm

Hỏi: Trong Tăng San Bốc Dịch Bình Thích nói: “Quẻ có quẻ biến, hào có hào biến. Quẻ biến, nội ngoại động mà phản ngâm, thuộc cùng một quẻ. Như quẻ Càn biến quẻ Khôn là vậy.”

Trong Bốc Phệ Chính Tông lại là Càn Tốn hỗ biến là quẻ biến phản ngâm. Như vậy rốt cuộc quẻ biến phản ngâm định nghĩa như thế nào ?

Đáp: Quẻ biến phản ngâm không có tỷ lệ ứng nghiệm cao bằng hào biến phản ngâm. Quẻ biến phản ngâm có hai phương diện. Một là xem từ quẻ tiên thiên, hai là từ quẻ hậu thiên, hễ là quẻ đối lập về phương vị chính là quẻ biến phản ngâm.

Càn biến Khôn là phản ngâm, chính bới Càn Khôn trái chiều, Khảm biến Ly cũng vậy, đây đều là xem từ quẻ tiên thiên. Quẻ hậu thiên, Càn đối ứng Tốn, chính bới Tây Bắc và Đông Nam trái chiều, thế cho nên Càn biến Tốn cũng là phản ngâm .

Hỏi: Quẻ biến phản ngâm và hào động phản ngâm, có phải đều biểu thị tình trạng lặp đi lặp lại hay không? Tăng San có đề cập đến quẻ biến hồi đầu khắc, loại tình huống này có phán đoán là hung tượng hay không?

Đáp: Quẻ biến phản ngâm chỉ là biểu thị sự việc lặp đi lặp lại mà thôi, hào biến phản ngâm lại chủ thông tin không tốt đẹp. Quẻ biến hồi đầu khắc thường chủ hung.

Sửu hoá Mùi là hoá Tiến thần

Hỏi: Sửu hóa Mùi có phải là hóa Tiến thần? Tuất hóa Sửu là hóa Tiến thần hay là Thoái thần?

Đáp: Sửu hóa Mùi không phải là Tiến thần, bởi vì ở giữa cách Thìn thổ, là quan hệ tương xung, có điều là trong lục hào cũng không tồn tại Sửu hóa Mùi thổ, vĩnh viễn sẽ không xuất hiện tổ hợp này. Tuất hóa Sửu là Tiến thần.

Dụng thần vô căn – quá nhược

Hỏi: Có một vấn đề nữa là phân biệt Dụng thần vô căn và Dụng thần quá nhược, hai cái này tôi luôn mập mờ, mong thầy chỉ giáo ?

Đáp: Dụng thần Nguyệt khắc Nhật không sinh thì có thể nói là vô căn, mà Nhật khắc Nguyệt không sinh phù cũng có thể là vô căn. Tình huống quá nhược nhất định phải là Nhật Nguyệt đồng thời khắc Dụng thần. Khắc thần trong quẻ lại hiện nhiều. Khắc thần chỉ có một thì hưu tù là hung, không thể là quá nhược

Điều kiện hình thành Tam Hợp Cục

Ngày Giáp Thìn tháng Thân, xem bệnh anh trai, được Truân biến Chấn

Hào Huynh Đệ Tý thủy là Dụng thần, những hào Kỵ thần, Nguyên thần trong quẻ này đều động, Tuất thổ động sinh Thân ; Thân kim động sinh Tý thủy ; Nguyệt kiến ( Thân ) lại sinh Tý thủy, đến ngày Mậu Thân, bệnh nặng sẽ thuyên giảm, như vậy sao hoàn toàn có thể nói rằng “ Đằng Xà động sẽ chết, Bạch Hổ động có tang ” !

Tân bình thích: Bạch Hổ có ý nghĩa bệnh tật, lâm Ứng lâm Quan Quỷ động mà khắc Dụng, Ứng là nơi khác, chính là bệnh nhiễm từ nơi khác, Dụng thần nhập Mộ ở Nhật, là tượng nằm bệnh trên giường, Phụ Mẫu lâm Đằng Xà động đến sinh Dụng, Đằng Xà chủ triền miên, là đã bị bệnh trong thời gian rất dài mới được hồi phục. Tại sao chẳng lý giải là sẽ chết?

Hỏi: Dụng thần Tý thủy là hào tĩnh, nếu Tý thủy là hào động thì có thể kết hợp với Nhật Nguyệt tạo thành tam hợp Thân Tý Thìn hay không?

Đáp: Quẻ này tam hợp không thành, tam hợp cục ít nhất là trong quẻ có hai hào động, mà hai hào động này lại nhất định phải là địa chi trong tam hợp cục. Địa chi ở giữa cũng cần phải phát động. Quẻ này Tý thủy bất động, vì vậy không phải là tam hợp cục.

Giải thích về Không Vong 1

Cùng ví dụ như trên: Ngày Giáp Thìn tháng Thân, xem bệnh anh trai, được Truân biến Chấn

Hỏi: Quan Quỷ Tuất thổ lâm Bạch Hổ khắc Dụng, do đó bị bệnh rất nặng. Nếu Dụng thần lâm Đằng Xà, mà giải thích là bị bệnh trong thời gian rất dài, thì nghe cũng thuận. Nhưng quẻ này Phụ Mẫu lâm Đằng Xà mà giải thích là bệnh lâu, nghe có vẻ không thuận cho lắm?

Đáp: Khi xem bệnh, không nhất định là phải xem Quan Quỷ, có nhiều trường hợp phải xem Dụng thần, Nguyên thần, hoặc Kỵ thần. Quẻ này Nguyên thần Phụ Mẫu hóa hồi đầu khắc, vì vậy có thể xem đây là bệnh, mà Quan Quỷ là Kỵ thần cho nên cũng có thể xem Quan Quỷ là bệnh.

Hỏi:

  • Phụ Mẫu hóa hồi đầu khắc thì hoàn toàn có thể sinh Dụng thần hay không ?
  • Hào cách sơn hóa hào, hoàn toàn có thể hiểu là Quan hóa hồi đầu sinh hay không ?
  • Quan động Nhật xung là Nhật phá hay là xung tán ?

Đáp: Khi Ngọ hỏa nhược bị xung mất thì Phụ Mẫu có thể sinh Huynh Đệ. Nhật xung Quan có thể là xung động mạnh hơn, ở đây có Phụ Mẫu động cho nên có thể tạo thế liên tục tương sinh.

Giải thích về Không Vong 2

Ngày Tân Dậu tháng Dần, xem về việc mở cửa hàng, được quẻ Cấn biến Minh Di

Hào Thế tại Dần mộc, đắc lệnh đương quyền, nếu mở shop trong lúc này, việc kinh doanh sẽ cực kỳ phát đạt. Nhưng hiềm nỗi Nhật thần Thìn khắc hào Thế, Dần mộc động hóa Dậu kim, hồi đầu khắc Thế, khiến đại tượng sinh ít khắc nhiều. Lại là quẻ lục xung, lục xung thì không được lâu .
Người xem liền hỏi rằng : “ Là người làm không đồng lòng, hay là bởi nguyên do khác ? ” Ta bèn đáp rằng : “ Quỷ ở bên mình ( tức Quỷ trì Thế ), nên phòng bệnh tật, người làm cũng bởi đó mà thay lòng, ắt phải chịu liên lụy. ” Về sau, người này quả nhiên tháng sáu mắc bệnh lỵ, đến tháng tám vẫn chưa khỏi. Người làm bèn lấy trộm sạch, người này kêu lên quan, nhưng cũng không lấy được đồng nào. Như vậy chính là được thời vượng tướng thì vô sự, hết thời sẽ chịu tổn hại .
Sở dĩ ứng nghiệm vào tháng sáu, là vì mộc gặp Mộ ở Mùi ; người làm thay lòng đổi dạ, vì hào Ứng tại Thân kim, đến mùa thu được thời mà xung hào Thế ; của cải bị lấy trộm, vì hào Tài Tý thủy gặp Không Vong .

Tân bình thích: Quẻ này giải thích dễ dẫn tới hiểu lầm, khi mở cửa hàng lấy Tài làm Dụng thần, nếu lại hỏi thêm cát hung của bản thân, thì mới xem hào Thế. Hiện nay phát đạt, là vì Nhật thần sinh hào Tài. Nhưng hào Tài gặp Không, bị Huynh Đệ Thìn thổ phát động khắc chế, Nguyên thần Nguyệt phá, lại là quẻ lục xung, do đó kinh doanh không được lâu dài. Tài lâm Huyền Vũ mà Không, Huyền Vũ là trộm cắp, cho nên bị ăn trộm. Hào sơ là người làm thuê, Huynh Đệ là nhóm, lâm Chu Tước động khắc hào Tài, hóa ra Quan Quỷ, Chu Tước là quan ti (kiện tụng), khẩu thiệt, Quan Quỷ là quan ti, cho nên là do nhóm người làm thuê trộm cắp tài sản trong cửa hàng mà phát sinh quan ti khẩu thiệt.

Bị kiết lỵ, là vì Kỵ thần tại hào 3 động mà khắc Thế. Hào 3 là hào vị bụng, Tài là phân và nước tiểu, Tử Tôn là Nguyên thần của hào Tài, vì thế là ruột, có kiết lỵ .

Hỏi: Vương lão sư đoán hiện nay kinh doanh phát đạt là bởi vì hào Tài được Nhật sinh. Hào Tài Không Vong thì còn có thể được sinh hay không? Bởi vì bên dưới có thuyết minh, Tài Không bị khắc nhập Mộ, bởi vậy mà bị trộm.

Đáp: Tài Không Vong có thể được sinh hay không là một khái niệm cơ bản nhập môn. Nhật sinh Tài, Nhật là hiện nay, là hiện nay kinh doanh phát đạt. Nhưng Tài Không nhập Mộ, Mộ biểu thị kết thúc, Không biểu thị không được tài, vì vậy không thể lâu dài.

Giải thích về Không Vong 3

Ví dụ của Vương lão sư: Ngày Đinh Sửu tháng Dậu, nữ xem bệnh đồng nghiệp, được quẻ Địa Thiên Thái biến Lôi Trạch Quy Muội

Đoán bệnh đồng nghiệp thì lấy hào Ứng làm Dụng thần, hào Ứng nhập Mộ, tượng nhập viện, Dụng thần vượng tướng Tuần Không, bệnh gần không sao. Hào 4 Huynh Đệ Sửu thổ là Mộ khố của Dụng thần, lâm Bạch Hổ động mà hóa ra Phụ Mẫu Ngọ hỏa, quẻ tại cung Khôn, Khôn chủ dạ dày, hào 4 cũng chủ dạ dày, Bạch Hổ chủ máu, Phụ Mẫu chủ bệnh viện, là chính do xuất huyết dạ dày nhập viện, quẻ chính lục hợp bệnh gần không nên .
Càng không nên Nguyên thần Huynh Đệ Thìn thổ động mà hóa thoái. Sau này tất thành bệnh mãn tính, khung hình từ từ suy yếu. Cừu thần Quan Quỷ Dần mộc lâm Câu Trần ở hào 2, Dần mộc chủ gan mật, Câu Trần chủ sưng trướng, người đó có bệnh như gan to, xơ gan hoặc sỏi mật .
Tình hình ứng nghiệm : Đồng nghiệp của cô ấy phải nhập viện vì xuất huyết dạ dày, sau khi điều trị có chuyển biến tốt đã xuất viện, vào tháng Mão năm Đinh Sửu, chính do gan to mà chết. Ứng năm Sửu, là năm Dụng thần nhập Mộ và Nguyên thần hóa thoái. Ứng tháng Mão, là vì Dụng thần gặp tháng xung .
Đây cũng là Dụng thần vượng mà liền khỏi bệnh, bệnh gần gặp hợp, gặp tháng xung mà chết .

Hỏi: Quẻ này cũng là bệnh gần gặp Không, thì khỏi bệnh. Nhưng bởi vì Nguyên thần hóa thoái, lại quẻ chính lục hợp, sau này tất thành bệnh mãn tính, cơ thể từ từ suy nhược. Kết quả là ở tháng Mão năm Sửu qua đời vì chứng gan to. Ví dụ của Dã Hạc tuy không phải là Nguyên thần hóa thoái, lại có Kỵ thần ám động đến khắc, chẳng lẽ không nghiêm trọng bằng quẻ này ư?

Đáp: Quẻ đó của Dã Hạc cũng hóa lục hợp, kết quả sau đó ra sao thì chúng ta không được biết, nhưng hóa lục hợp thông thường sẽ xuất hiện vấn đề. Bệnh gần gặp Không, xung và hợp là vấn đề mâu thuẫn.

Cách Sơn Hóa Hào

Ngày Canh Thân tháng Dần, xem về con trai bị bệnh đậu mùa, được quẻ Phong Hỏa Gia Nhân biến Ly

Dã Hạc lão nhân phán đoán : Hào Tử Tôn Tị hỏa, tại mùa xuân là đương lệnh, Tử Tôn là vượng tướng, nên bệnh hoàn toàn có thể chữa được. Nhưng sau lại chết vào giờ Dần ngày Dần, lúc này mới ngộ ra rằng, do Nguyệt kiến tại Dần, Nhật kiến tại Thân, cùng với hào Tị tạo thành tam hình .

Chỉ có quẻ này ứng nghiệm, vì không bị những hào khác tổn thương. Còn Tý Mão Thìn Tuất Sửu Mùi, cũng có ứng nghiệm, đều có công dụng phụ trợ cho điều hung .

Hỏi: Quẻ này có phải là tượng “Tử Tôn hóa Thê Tài + Thê Tài hóa Quan Quỷ = Tử Tôn cách Thê Tài biến Quỷ”?
Có phải là người xưa không biết cách chữa trị đậu mùa mà dùng sai phương pháp, khiến cho đứa con tử vong?
Quẻ này có liên quan đến việc dùng tam hình để luận cát hung hay không?

Đáp: Tam hình chỉ xem một phần thôi, ở quẻ này thì tác dụng của cách sơn hóa hào là rất lớn. Cái này giống như A = B, B = C, vì thế A có thể trực tiếp bằng C. Tử Tôn cách Tài hóa Quỷ, Tài lâm Chu Tước, có thể biểu thị bởi vì sốt mà chết, hoặc bởi vì không thể ăn uống mà chết,…

Vương Hổ Ứng Mạn Đàm

Trong trong thực tiễn luận giải quẻ dịch, có rất nhiều yếu tố phát sinh mà tất cả chúng ta không hề trấn áp hết. Tuy những yếu tố đó nhìn trong rất nhỏ nhưng lại hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động đến cát hung của hàng loạt quẻ. Nhưng nhiều người học dịch lại hay bỏ sót những thứ cơ bản, hay chăm sóc đến những thứ cao hơn mà đâu biết rằng toàn bộ những toà hoàng cung đều được xây bằng những viên gạch thô ráp tiên phong .
Nếu ví những viên gạch là những kỹ năng và kiến thức về lý thì những kỹ năng và kiến thức về tượng lại như xi-măng, nếu chỉ có gạch không thì không hề có link ngặt nghèo được. Vì lẽ đó mà lão sư Vương Hổ Ứng đã vận dụng những kiến thức và kỹ năng về tượng để tăng trưởng Dự đoán Lục Hào đến 1 tầm cao mới .

Nguyệt Mộ

Tân bình thích:

Trước nói Tam Mộ là Nhật Mộ, động Mộ và hóa Mộ, Nguyệt Mộ trọn vẹn không được đưa vào Tam Mộ. Ở đây lại nói Nguyệt Mộ là thế nào ?
Người xưa xem Mộ là hung, trên thực tiễn đó là một nhận thức sai lầm đáng tiếc về Mộ khố. Cát hung đa phần xem lực sinh khắc của Nhật Nguyệt hào động so với Dụng thần ra làm sao, Mộ khố chỉ phụ họa cho Dụng thần theo góc nhìn tượng và phân rõ ý nghĩa phán đoán mà thôi .
Theo như quẻ tiên phong, tự xem bệnh, Nguyệt kiến là thổ khắc chế Dụng thần, Nguyên thần nhập Nguyệt Mộ, Nguyên thần là tư duy và quốc tế nội tâm của con người, Nguyên thần nhập Mộ, chính là tượng không có ý thức. Dụng thần không cát, trong quẻ Phụ Mẫu Mão mộc phát động, Mão mộc là Tử địa của Dụng thần, trợ khởi Huynh Đệ Ngọ hỏa, Nhật xung tạo thành ám động, khắc chế Nguyên thần, Nguyên thần lại động mà hóa Phá, vì thế là hung, tháng Dần Cừu thần được trợ, Nguyên thần bị xung mất, thế cho nên mà ứng vào tháng Dần .
Ví dụ : Ngày Quý Mùi tháng Tuất, Dịch hữu Mao tiên sinh ở Giang Tô hỏi tôi, cha vợ của một người bị tai nạn đáng tiếc xe cộ nhập viện, ông ta đoán là cát, quan điểm tôi thế nào ? Quẻ Sơn Trạch Tổn biến Địa Trạch Lâm .

Ví dụ về Nguyệt Mộ

Tôi đáp: Cha vợ người này đã hôn mê bất tỉnh, tháng Hợi tất hung. Kết quả là mất ở tháng Hợi.

Quẻ này Nhật Nguyệt không khắc Dụng thần, Dụng thần nhập Mộ ở Nguyệt, chính là tượng hôn mê. Trong quẻ mặc dầu được Nguyên thần động mà đến sinh, nhưng Nguyên thần cũng hưu tù vô lực, động hóa hồi đầu khắc, vô lực sinh Dụng, đến tháng Hợi Nguyên thần bị hợp không hề sinh Dụng, Dụng thần lâm Tuyệt, tất hung .
Người đời chỉ biết Dụng thần vô khắc, được Nguyên thần động mà đến sinh là cát, mà không biết Nguyên thần bị thương vô lực sinh Dụng cũng là hung .
Tuy nhiên, chiêu thức của Dã Hạc là một quẻ không rõ thì xem thêm quẻ nữa, hợp những quẻ lại mà quyết, đây cũng là một cách dễ làm. Đáng được đề xướng .

Nguyệt phá

Dã hạc lý luận

Ví dụ: Ngày Bính Thân tháng Tị, xem về bệnh tật, được quẻ Cấu:

Ví dụ Nguyệt phá
Thầy thuốc mang quẻ này đến hỏi ta rằng : “ Người nọ mắc bệnh rất hiểm nghèo, nên tôi bảo người bệnh gieo quẻ xem uống thuốc có chữa được hay không ? Quẻ này Nguyệt kiến Tị hỏa, hào Ứng là Ngọ hỏa sinh hào Thế Mão mộc, chủ về chữa khỏi được, tại sao uống thuốc đều không có công dụng ? ”

Ta bèn đáp rằng: “Ý tứ của quẻ này rất rõ ràng, chẳng qua là anh xem sai. Xem về thuốc thang cần lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần, lấy hào Phụ Mẫu làm Kỵ thần. Quẻ này Hợi thủy là Tử Tôn, gặp Nguyệt phá mà vô căn, được Nhật thần Thân tương sinh cũng không sinh khởi được, hào Thế là Phụ Mẫu lại khắc Tử Tôn. Như vậy gọi là Phụ Mẫu trì Thế, có thuốc thần cũng khó chữa, như vậy uống thuốc làm sao có tác dụng được? Chẳng phải là quẻ không chính xác, mà do anh suy đoán không đúng mà thôi”.

Tân bình thích: Luận bàn này của Dã Hạc không đúng, Tử Tôn mặc dù là Nguyệt phá, sao lại Nhật sinh bất khởi? Đây là dạy người ta “hễ là hào Nguyệt phá thì khỏi cần xem Nhật, Nguyệt phá thì vô căn, Nhật sinh cũng suy ra là hung”, cái lý này dễ khiến chúng ta lầm đường lạc lối.

Quẻ này ý nghĩ xem thuốc phát sinh từ thầy thuốc, không phải từ nội tâm của người bệnh, mặc dầu là người bệnh gieo quẻ, nhưng vẫn coi như thầy thuốc gieo quẻ xem cho người bệnh, lấy Ứng làm Dụng thần. Dã Hạc bảo người ta xem nhiều quẻ chính là mời, người thầy thuốc này bảo người ta gieo quẻ chính là mệnh lệnh, có sự độc lạ về thực chất .
Trong quẻ Ứng là người bệnh, mặc dầu được Nguyệt kiến trợ giúp, nhưng Nguyên thần không ở trong quẻ, không được Nguyệt sinh, Nhật thần khắc, vô lực sinh Dụng, thế cho nên thuốc không công hiệu. Tử Tôn là thuốc, chính là lục thân khắc Dụng thần, uống thuốc làm thế nào có hiệu nghiệm ?

Khắc xứ phùng sinh

Dã hạc lý luận là bị hào này khắc, lại được hào khác sinh, như vậy là khắc xứ phùng sinh ( trong khắc gặp sinh ). Dụng thần, Nguyên thần, được khắc ít sinh nhiều là cát lợi. Còn với Kỵ thần, bị khắc ít sinh nhiều là hung, thế cho nên Kỵ thần nên gặp khắc, không nên gặp sinh .

Tân bình thích: Lý này của Dã Hạc rất đúng, nếu như sức mạnh của Kỵ thần và Dụng thần tương đương, không thể phân biệt, thì hãy xem sự suy vượng của Nguyên thần và Cừu thần ra sao, Nguyên thần vượng thì đoán là cát, Cừu thần vượng thì đoán là hung.

Ví dụ: Vào ngày Bính Thân tháng Thìn, xem cho em trai bị bệnh đậu mùa, đã đến lúc nguy kịch, được Ký Tế biến Cách:

Bèn đoán rằng: Nguyệt kiến tại Thìn thổ, tuy khắc Huynh Đệ Hợi thủy, nhưng nhờ được Nhật thần Thân tương sinh, lại được hào động Thân kim tương sinh, nên tuy nguy kịch, sau vẫn được cứu. Quả nhiên đến giờ Dậu ngày đó, gặp được danh y cứu chữa, đến ngày Kỷ Hợi đã khỏi hoàn toàn.

Người đi xa đã tự ải ?

Tân bình thích
Ví dụ: Năm Tân Tị có Dịch hữu Trương tiên sinh ở Đường Sơn đến thăm và đưa tôi xem một quẻ, ngày Canh Thân tháng Mùi, xem em gái bên ngoài bao giờ trở về? Được quẻ Hỏa Sơn Lữ biến Càn Vi Thiên, bảo tôi phán đoán.

Tôi đoán rằng: Em gái người này sẽ không trở về, sợ rằng đã tự sát ở bên ngoài.

Trương tiên sinh đáp : Hôm trước ngày gieo quẻ, tức là ngày Đinh Mùi, cô gái này đã nằm đường ray tự sát. Trong quẻ Dụng thần động hóa hồi đầu sinh, tại sao không quay trở lại được ? Làm sao ông biết là tự sát ?
Tôi vấn đáp : Trong quẻ này Dụng thần Huynh Đệ Ngọ hỏa Nguyệt hợp là có khí, lại động hồi đầu sinh, nhưng hóa ra Nguyên thần nhập Mộ ở Nguyệt kiến, Nhật thần khắc Tuyệt, vô lực sinh Dụng, quay trở lại là xác chết .

Nguyên thần chính là tư duy và quốc tế nội tâm của một cá thể, Dụng thần lâm hào 2, hào 2 là trạch ( nơi ở ), Nguyên thần không hiện trên quẻ, Mộ ở Nguyệt kiến và hào động Mùi thổ, Tuyệt ở Nhật, không hề sinh hào 2 Dụng thần, chính là bản thân cô gái không muốn về nhà. Dụng thần, Nguyên thần hưu tù, Nguyên thần gặp một trong Tử Mộ Tuyệt, phần đông là tự sát, Nguyên thần Tử tại Ngọ hỏa, Mộ tại Mùi thổ, Tuyệt tại Thân kim, Tử Mộ Tuyệt đều khá đầy đủ, vì thế mới dám đoán là tự sát .

Quẻ này rất hay, Nguyên thần Mộ ở hào 5, Dụng thần cũng hợp ở hào 5, hào 5 là đường đi, hóa ra Thân kim, chính là đường ray, tượng nằm đường ray tự sát rất rõ ràng. ( Trích đoạn từ cuốn sách : Tăng San Bốc Dịch Bình Thích )

Vòng trường sinh – Sinh vượng mộ tuyệt

Cách gọi đúng chuẩn phải là 12 trạng thái sinh tử của ngũ hành. Người xưa đã coi 12 cung trường sinh là địa thế căn cứ để phán đoán cát hung, trên trong thực tiễn đó là một nhận thức sai lầm đáng tiếc. Vai trò của 12 cung trường sinh là dùng để bộc lộ “ tượng ”, việc sử dụng để xem cát hung chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ có một hai Phần Trăm mà thôi .

Dã hạc lý luận

Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng, tổng số có mười hai trạng thái .
Ta xem thấy ứng nghiệm chỉ có Sinh ( Trường Sinh ), Vượng ( Đế Vượng ), Mộ, Tuyệt ; còn lại đều không ứng nghiệm, nên không cần dùng đến .

Tân bình thích

Đây là luận về 12 cung trường sinh, cách gọi đúng chuẩn phải là 12 trạng thái sinh tử của ngũ hành. Người xưa đã coi 12 cung trường sinh là địa thế căn cứ để phán đoán cát hung, trên trong thực tiễn đó là một nhận thức sai lầm đáng tiếc. Vai trò của 12 cung trường sinh là dùng để bộc lộ “ tượng ”, việc sử dụng để xem cát hung chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ có một hai Phần Trăm mà thôi .
Thực ra 12 cung trường sinh đều có ứng nghiệm, trong cuốn “ Lục Hào Bảo Điển ” tôi đã trình diễn cụ thể về yếu tố này. Nay tôi dẫn lại ví dụ đã từng đưa ra trước đây, để giúp tất cả chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được chỗ diệu dụng của 12 cung trường sinh .
Ví dụ : Ngày Đinh Dậu tháng Mão, một người Nhật Bản nhờ tôi đoán tử vi & phong thủy nhà ở, được quẻ Trạch Lôi Tùy .

Đoán: Lấy hào Tử Tôn làm Dụng thần, Tử Tôn Thân kim không hiện trên quẻ, phục dưới hào 3 Huynh Đệ Sửu thổ, Dụng thần phục tàng nhập Mộ, chính là tượng nhập viện nằm giường, trong quẻ hào sơ Phụ Mẫu Tị hỏa lâm Chu Tước ám động khắc Dụng thần Thân kim, Chu Tước chủ khẩu thiệt, nhất định là phát sinh tranh chấp với cha mẹ mà mắc bệnh.

Nhưng trong quẻ mộc động sinh hỏa, hỏa động sinh thổ, thổ động sinh kim, hào sơ ám động liên tục tương sinh, hoàn toàn có thể nói “ thành dã Tiêu Hà bại dã Tiêu Hà ” [ 1 ], hào sơ chủ bàn chân, Phụ Mẫu lại chủ dạt dẹo, cô gái này nhất định được cha mẹ hết lòng bôn tẩu tương cứu mà được sống. Tử Tôn Thân kim nhập Mộ ở Sửu, tháng Mùi xung khai khố lại được sinh phù sẽ xuất viện, tháng Thân phục tàng Thân kim Open mà khỏi bệnh .
Quả nhiên cô gái này do tại có tình nhân, cha mẹ phản đối mà uống thuốc độc tự tử, may mà cha mẹ phát hiện kịp thời đưa vào bệnh viện cấp cứu mà giữ được mạng sống, tháng Mùi xuất viện, tháng Thân phục sinh .
Trong ví dụ này Sửu thổ vừa là là Mộ khố, vừa sinh hào kim, Mộ khố là tượng nhập viện, sinh kim là được bệnh viện cứu, cả hai đều có tính năng của riêng nó. Tị hỏa vừa khắc kim vừa Trường Sinh kim, khắc kim là cha mẹ chửi mắng cô ấy, quở trách cô ấy, Trường Sinh là cha mẹ yêu thương cô ấy, cứu cô ấy, tổng thể áo diệu của quẻ nằm ở chỗ đó .
[ 1 ] Thành dã Tiêu Hà bại dã Tiêu Hà : Thành sự tại Tiêu Hà, bại sự cũng tại Tiêu Hà .
Trong Dự kiến lục hào, những ví dụ tôi được nghiệm cũng là thổ Trường Sinh ở thân, như ví dụ trước, Thìn thổ gặp ngày Dậu là Mộc Dục chính là lấy thổ Trường Sinh tại Thân mà luận, ứng nghiệm ở phòng tắm. Sở dĩ người xưa có hai thuyết, là chính do Thân đóng ở Khôn thổ, Dần đóng ở Cấn thổ, nên mới Open hai thuyết Trường Sinh. ( Trích đoạn từ cuốn sách : Tăng San Bốc Dịch Bình Thích ) .

Có nên gieo quẻ nhiều lần ?

Có nên gieo quẻ nhiều lần ? Vương Hổ Ứng đại sư cho rằng người trình độ cao thì không cần gieo quẻ nhiều lần, một quẻ là hoàn toàn có thể định đoạt. Bởi vì công lực nông cạn mà nhìn không ra huyền cơ trong quẻ, thì hoàn toàn có thể phối hợp với quẻ xủ lại mà phán đoán .

Dã hạc lý luận

Có người hỏi: Như xem phòng tai nạn, nếu được Tử Tôn trì Thế tất nhiên là chẳng lo,  nếu được Quan Quỷ trì Thế tất gặp kinh khủng. Nếu trong quẻ chẳng hiện thì làm sao mà quyết?

Tôi đáp: Một quẻ không thấy thì xem thêm một quẻ nữa, nếu vẫn không thấy thì ngày mai xem lại. Người xưa câu nệ không dám xem lại, cho nên hết cách.

Tân bình thích

Người trình độ cao thì không cần xủ quẻ nhiều lần, một quẻ là hoàn toàn có thể định đoạt. Bởi vì công lực nông cạn mà nhìn không ra huyền cơ trong quẻ, thì hoàn toàn có thể phối hợp với quẻ xủ lại mà phán đoán. Tuyệt đối không hề cho rằng Tử Tôn trì Thế tức là không lo, nếu như hào Thế hưu tù Không Phá thì Tử Tôn trì Thế vẫn có tai ương .

Dã hạc lý luận

Kinh Dịch có nói : “ Tam nhân chiêm, thính nhị nhân chi ngôn ” ( ba người xem thì theo lời bàn của hai người ). Người xưa một việc đã hoàn toàn có thể quyết ở ba chỗ, người nay tái cầu có sao đâu ? Tôi bình sinh đến nay được chút thâm sâu đều là nhờ vào sức xem quẻ nhiều lần. Việc không gấp thì cách nhật xem lại, việc gấp thì nghỉ một chút ít rồi lại xem nữa. Chẳng luận sớm muộn, chẳng cần đốt nhang, nửa đêm gà gáy cũng hoàn toàn có thể xem quẻ. Miễn là chỉ xem một việc đó thôi chứ không được xem việc khác. Duy có người xem quẻ mà trong lòng nghĩ đến hai ba việc, nếu không có lòng thành nhất niệm thì nhất định chẳng linh nghiệm .

Tân bình thích

Việc Dự kiến không ở gieo quẻ nhiều mà là ở trình độ của dự trắc sư như thế nào. Nếu quái sư được nhờ vả là bọn tầm thường thì hỏi mười người cũng đều sẽ không ứng nghiệm. Vì vậy “ tam nhân chiêm, thính nhị nhân chi ngôn ” cũng là sai. Đôi khi chân lý lại nằm ở trong tay của thiểu số .
Một lần vào năm 2001, Dương tiên sinh ở thành phố Đại Liên đã gọi điện thoại cảm ứng cho tôi, nhờ tôi phán đoán cát hung cho đứa nhỏ qua quẻ lưu niên của ông ấy. Ngày Bính Ngọ tháng Dần, gieo được quẻ Lôi Trạch Quy Muội biến Càn Vi Thiên .

Tôi đoán đứa nhỏ chỉ là công dụng phổi không tốt, không có hung tai gì lớn, sẽ bình an vượt qua năm này. Nhưng Dương tiên sinh trước sau đã hỏi qua quan điểm của hơn 80 cao thủ lục hào có chút tiếng tăm trong nước, họ đều luận là hung, nói rằng năm đó con gái của ông chắc như đinh sẽ chết, sau cùng tôi là người duy nhất Dự kiến đúng .
Đây chẳng phải là quẻ không ứng nghiệm mà là do mọi người chưa hiểu sâu được chỗ vi diệu trong quẻ. Quẻ này Nhật Nguyệt không sinh hào Tử Tôn, trong quẻ lại có hào Phụ Mẫu lưỡng động tới khắc, người mới học ắt cho là hung, thực ra không phải vậy .

Tử Tôn Hợi thủy được Nguyệt hợp là hợp vượng có khí, Nhật Nguyệt vốn không khắc Tử Tôn, Tử Tôn có gốc rễ, trong quẻ tuy có Phụ Mẫu lưỡng động, nhưng có Nguyên thần động mà tạo thành thế liên tục tương sinh, sao mà có đại hung được? Nếu như lấy số lượng ý kiến quái sư để định đoạt cát hung thì chắc chắn là tôi đã thất bại rồi.

Đối với người mang trong lòng hai ba việc, họ vẫn hoàn toàn có thể xem quẻ. Tôi thường gặp phải những người đến xem muốn đoán nhiều việc cùng một lúc, có một quẻ mà hỏi bệnh cho hai ba người, một quẻ mà hỏi đồng thời vợ chồng việc làm sức khỏe thể chất, dù vậy nhưng đều có ứng nghiệm. Có điều là một việc xem một quẻ thì tốt hơn, thông tin phản ánh trên quẻ tập trung chuyên sâu hơn, cụ thể hơn. Song nếu muốn một quẻ đoán nhiều việc thì cần phải có trình độ Dự kiến vững vàng, trước đó phải học tốt một quẻ đoán một việc đã .

Thay lời kết

Vương Hổ Ứng thực sự là một ngôi sao trong diễn đàn lục hào quốc tế, cách luận quẻ của Vương Lão Sư rất tinh diệu, đáng để các môn đồ Lục Hào Phái học tập tham khảo…Bản thân Cổ Học khi tiếp cận được các tài liệu của Vương Lão Sư thì rất là yêu thích. Kính mời mọi người, những anh em cùng niềm đam mê Lục Hào Dự Đoán tham gia Group Facebook để chúng ta được cùng nhau tiếp tục học tập môn dự đoán tinh xảo này…

Chân thành cảm ơn toàn bộ những bạn …. !

Exit mobile version