Vịnh Xuân quyền (詠春拳, Wing Chun, ving tsun, Wing Tsun, Wing Chun kuen, Wingchun-kuen) còn được biết đến dưới tên gọi Vĩnh Xuân quyền (永春拳) và những biến thể khác về tên như Vịnh Xuân công phu (詠春功夫) hay Vịnh Xuân phái (詠春派), là một môn võ thuật có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.

Bên cạnh thiểu số cho rằng rất hoàn toàn có thể môn phái đã có lịch sử dân tộc không dưới 400 năm. Hầu hết đều khẳng định chắc chắn nguyên khởi Vịnh Xuân quyền từ trào lưu Phản Thanh phục Minh cách đây chừng 2 thế kỷ .Môn phái đã gia nhập đến những vương quốc lân cận và phương Tây trong thời tân tiến, sau khi sự thành đạt của Lý Tiểu Long trên màn ảnh những thập niên 70 đã giúp tiếp thị hình ảnh môn phái khắp quốc tế. Vịnh Xuân quyền từ chỗ chỉ được truyền dạy bí mật trong những gia tộc trở thành một trong những phái võ thuật được nhiều người biết đến và rèn luyện, với hàng triệu đệ tử và hàng chục chi phái trên toàn quốc tế .

Lịch sử và tên gọi của môn phái.

Cho đến nay, những cứ liệu lịch sử chính xác về quá trình hình thành, phát triển của môn phái vẫn còn chìm trong mây mù của thời gian. Hầu hết thông tin lịch sử môn phái đều được truyền miệng giữa các đời truyền nhân nên có nhiều khác biệt giữa thực tế và giai thoại mang tính truyền thuyết.[1]

Bạn đang đọc: Vịnh Xuân quyền.

Nhưng có một điểm hầu hết các thuyết đều thống nhất, đó là thời gian ra đời của môn phái nằm trong khoảng giai đoạn phong trào phản Thanh phục Minh ở Hoa lục, cách ngày nay trên dưới 200 năm, đang phát triển rầm rộ. Chi tiết hơn về niên đại, Vương Thái trong Sổ tay Võ thuật còn viết: “Võ phái Vịnh Xuân ra đời gần 2 thế kỷ, vào năm Gia Khánh đời Thanh (1810), thuộc Nam Phái Thiếu Lâm”[2].

Một trong những thuyết phổ cập nhất do Đại tôn sư Vịnh Xuân Diệp Vấn truyền lại là tên tuổi môn phái bắt nguồn từ tên của vị tổ sư môn phái là Nghiêm Vịnh Xuân, con gái của Nghiêm Nhị, học trò của Ngũ Mai lão sư thái. Nghiêm Vịnh Xuân truyền những kỹ thuật mình sở đắc lại cho chồng là Lương Bác Trù. Lương Bác Trù sau đó tăng trưởng môn võ và đặt tên theo tên của vợ là Vịnh Xuân quyền [ 3 ] .

Một số học thuyết về lịch sử môn phái đã nhấn mạnh vai trò sáng tổ của các nhân vật có liên quan đến phong trào khởi nghĩa dưới ngọn cờ khôi phục Minh triều thông qua việc chiết tự tên môn phái. Theo đó, chữ Xuân 春 được hiểu bao gồm 3 chữ Đại (大), Thiên (天) và Nhật (日) (ánh sáng bao la khắp gầm trời) ngầm ý chỉ nhà Minh (明), và chữ Vĩnh (永) với ý nghĩa mãi mãi, hoặc chữ Vịnh (詠) có ý nghĩa ca ngợi.

Một thuyết nữa cho rằng môn phái Vịnh Xuân bắt nguồn từ một cao tăng của chùa Thiếu Lâm là Chí Thiện thiền sư. Sau khi chùa bị nhà Thanh đốt phá, ông đã trốn xuống phía nam và ở ẩn trong đoàn Hồng thuyền. Về sau, ông tăng trưởng một kỹ thuật chiến đấu cận chiến đặc biệt quan trọng, đặt trọng tâm vào vận tốc, xung lực và mượn lực, gần giống Thái cực quyền, hoạt động theo những vòng xoáy và cuốn, nhưng với biên độ nhỏ hơn rất nhiều để tăng cường vận tốc. Hệ thống kỹ thuật mới này được ông gọi là Vịnh Xuân, theo tên của tòa Vĩnh Xuân điện trong chùa Thiếu Lâm .Một thuyết khác lại cho rằng, Vịnh Xuân quyền bắt nguồn từ một người hát kịch và giỏi võ thuật dưới triều Hoàng Đế Ung Chính ( 1723 – 1736 ) tên là Trương Ngũ, tự Than Thủ Ngũ ở Hồ Nam đến Phật Sơn truyền lại môn võ này và rồi truyền tới Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Để và Đại Hoa Diện Cẩm ( A Cẩm ) .
Bàn về mạng lưới hệ thống kỹ thuật của Vịnh Xuân quyền, trên sự quan sát bề nổi của nhiều người, đó là cảm nhận về một mạng lưới hệ thống khá đơn thuần với vài ba bài quyền, một bài côn, một bài đao và một bài mộc nhân thung. Thật hiếm có một võ phái nào khác chỉ dựa trên nền tảng một vài bài quyền và bài binh khí như vậy .

Tuy nhiên, Vịnh Xuân quyền không nhấn mạnh vào tính hình thức và do đó rất khó khăn để trở thành một hệ thống để biểu diễn. Các bài quyền không phản ánh tính chất quy ước cho các chiêu thức, phân thế cụ thể từng chiêu tấn công hay phòng thủ (chẳng hạn như một số võ phái dạy đòn thế theo kiểu khi đối phương đấm thì ta đỡ thế nào và phản công ra sao), mà là những nguyên lý tấn công và phòng thủ rất cần sự sáng tạo của môn sinh khi ứng dụng thực chiến.

Theo những võ sư Vịnh Xuân lão luyện, yếu lĩnh tự nhiên tính được đề cao hàng đầu, vì vậy những người cố gắng theo đuổi vẻ đe dọa bên ngoài của động tác sẽ không bao giờ phát triển được trong môn võ này. Kỹ thuật các dòng Vịnh Xuân quyền trên thế giới cho thấy tính chất “đại đồng tiểu dị” với những điểm giống nhau là căn bản, bao gồm trong nó những nguyên lý xuyên suốt khi luyện tập các bài quyền; khái niệm “xả kỷ tòng nhân” (quên mình theo người), “thính kình” (nghe lực), “tâm ứng thủ” (khi đầu óc nghĩ đến một đòn đánh là chân tay thực hiện thành công); hệ thống đòn chân không có đá xoay người hay đá bay; hệ thống thủ pháp nhu nhuyễn nhưng nhanh và mạnh như roi quất; tấn pháp kiềm dương mã tự, xước mã (đạp bộ); công phu niêm thủ, niêm cước, trao đổi thân, niêm côn và đao; và các bài luyện tập trên mộc nhân trang.

Hệ thống quyền pháp của Vịnh Xuân quyền xuất phát từ Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến mà kỹ pháp đặc trưng của nó là hệ thống kiều thủ (phát âm theo âm Quảng Đông là Kìu Sẩu, hàm nghĩa “tay bắc cầu” hay “tìm cầu nối giữa công và thủ”), là đoạn xương cánh tay trước từ cổ tay đến cùi chỏ dịch nghĩa sang tiếng Anh là the Bridge Hand Techniques hay the Bridge Arm Techniques.

Hầu hết những võ phái tại miền Nam Trung Quốc mở màn từ bờ phía Nam sông Trường giang ( Dương Tử Giang ) trở xuống, tức là gồm có những tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, … đều có nguồn gốc từ ngôi chùa Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến, do vậy những mạng lưới hệ thống kỹ thuật đòn tay đều dùng chữ Kiều và bộ tấn dùng chữ Mã bộ ám chỉ bộ chân vận động và di chuyển và gọi tắt là Kiều Mã ( Kiều phải chắc như đinh, Mã phải vững vàng ) do vùng miền Nam Nước Trung Hoa sông nước nhiều và thường đánh nhau trên ghe, thuyền nên phải trụ bộ một chỗ đánh .

Trong Thiếu Lâm Hồng gia thường có câu: “ổn mã ngạnh kiều” 穩馬硬橋, “trường kiều đại mã”长橋大馬, “đoản kiều tiểu mã” 短橋小馬, tạm dịch là ngựa vững cầu cứng, ngựa lớn cầu dài, ngựa nhỏ cầu ngắn, nghĩa là bộ tấn vững chãi đòn tay rắn chắc, đòn tay dài với bộ tấn rộng thấp, đòn tay ngắn với bộ tấn nhỏ hẹp và cao (cao mã).

Về chiến đấu pháp trong Thiếu Lâm Hồng gia lại có câu: xuyên kiều tranh mã xích thân trửu 穿橋爭馬尺身肘, nghĩa là chủ về lối đánh trụ bộ (một chỗ) cận chiến và nhập nội nhiều hơn, xuyên kiều nghĩa là xuyên tay và len tay vượt trên tay đối phương, “tranh mã” nghĩa là phải dùng chân nêm chặt bộ vị (thế tấn) của đối phương, xích thân trửu nghĩa là thân và cùi chỏ (trửu) phải luôn áp sát đối phương.

Trong Bạch Mi quyền lại có câu chiến đấu pháp: hữu kiều – kiều thượng quá, mậu kiều – tự chế kiều 有橋 – 橋上過, 瞀橋 – 自製橋 nghĩa là có cầu (hữu kiều, gặp kiều thủ đối phương bắc cầu) thì phải leo lên cầu mà vào nghĩa là gặp tay địch nhân thì phải dùng tay của mình chặn ở trên mà tiến vào mình đối phương (kiều thượng quá), nếu không có kiều rõ ràng (2 bên có khoảng cách chưa bên nào ra tay trước) – (mậu kiều) – thì phải đưa tay bắc cầu mà vào (tự chế kiều).

Các bộ quyền của Nam Thiếu Lâm (hay Nam Quyền) thường dùng 2 thế tấn căn bản trong các bài quyền là tứ bình bát phân (Sei Ping Baat Fahn 四平八分) còn gọi là tứ bình mã (Sei Ping Ma 四平馬) tức là Trung bình tấn, và thế tấn thứ hai là Nhị tự kiềm dương mã (Yee Gee Kim Yeung Ma – Yih Jih Kìhm Yèuhng Máh 二字鉗(箝/拑)陽馬 – 二字鉗(箝/拑)陽馬) gồm đại kiềm dương mã 大鉗(箝/拑)陽馬 và tiểu kiềm dương mã 小鉗(箝/拑)陽馬 (dương đây chúng ta phải hiểu nghĩa Hán Việt là giống đực) (xem kiềm dương tấn).

Trong Nam Quyền ( Hồng Gia quyền, Bạch Mi quyền, Vịnh Xuân quyền, Bạch Hạc quyền ) thường dùng chữ kiều mã 橋馬 để nhấn mạnh vấn đề tầm quan trọng của kiều thủ và mã bộ khi giao thủ với đối phương không cho đối phương niêm kiều, triệt kiều, phá mã .3 bài tiên phong ( Tiểu niệm đầu, Tầm kiều, Tiêu chỉ ) là những giai trình rèn luyện những động tác kiều thủ cơ bản để tiến vào bài Mộc nhân trang thi triển hiệu suất cao những động tác kiều thủ .

Vịnh Xuân truyền thống có 4 bài quyền cốt lõi, trong đó 3 bài đầu lần lượt tương ứng với trình độ môn sinh sơ cấp, trung cấp và cao cấp là Tiểu niệm đầu, Tầm kiều và Tiêu chỉ, làm nền tảng bài thứ 4 là bài Mộc nhân trang (tập luyện với mộc nhân), còn gọi là bài 116 (Hồng Kông); bài 160 (Quảng Đông) hay 108 (Việt Nam).

  • Bài Tiểu niệm đầu đưa ra các thế tay (kiều thủ) căn bản, thế tấn Nhị tự kiềm dương mã và khái niệm Trung tâm Tuyến cho nên cũng được coi là bài tập cho môn sinh phép phòng thủ căn bản.
  • Bài Tầm kiều đưa ra các thế tay phản công và các đòn chân (Thoái pháp, Cước pháp) và cách thức di chuyển bộ vị (Kiềm dương + Mai hoa bộ; đây là kỹ thuật nâng cao của môn đồ cao thủ Vịnh Xuân hệ phái của ông Lục Viễn Khai) khi giao đấu hoặc thực chiến.
  • Bài Tiêu chỉ là kỹ thuật nâng cao và chỉ được truyền dạy cho đệ tử trong môn để làm nền tảng cho bài Mộc nhân trang.

Khác với chi phái tại Hồng Kông, tại Quảng Đông bài Tiêu chỉ được dạy trước bài Tầm kiều .Quá trình Viral khắp quốc tế và trong giao thoa với những dòng phái võ thuật khác đã sinh thành nhiều dòng phái Vịnh Xuân quyền có chỗ ” đại đồng tiểu dị ” không chỉ ở những công phu mà còn ở mạng lưới hệ thống bài quyền. Tùy dòng phái, những bài quyền hoặc mạng lưới hệ thống bài quyền dưới đây hoàn toàn có thể được kể tên : Thập nhị thức, những bài Ngũ hình quyền, Vĩnh xuân quyền ( bài quyền ), Thủ đầu quyền, Khí công quyền ( còn gọi là Vịnh xuân khí công, Bối khí quy chi ), Hạc hình hư bộ, Tiểu mai hoa, Đại mai hoa v.v. và hoàn toàn có thể có hoặc không có hai bài Tầm kiều, Tiêu chỉ .Tuy nhiên, những bài tập rời với những nguyên tắc, kỹ pháp của Tầm kiều, Tiêu chỉ vẫn được truyền dạy như cơ bản công và cơ bản kỹ thuật trong suốt những năm tháng môn sinh đến với Vịnh Xuân quyền. Theo võ sư Nam Anh của chi lưu tên tuổi Vịnh Xuân chính thống phái, ba bài tập thông dụng trong hệ Vịnh Xuân quyền Hồng Kông lúc bấy giờ ( ý nói Tiểu niệm đầu, Tầm kiều và Tiêu chỉ ) thực ra không hề coi là những bài quyền, mà là ba tiến trình trong tiến trình rèn luyện của môn sinh. Tại miền Nam Nước Ta thì Vịnh Xuân quyền mà ông Lục Viễn Khai dạy chỉ có học một bài quyền Tiểu niệm đầu ( 36 điểm thủ ) và đã gồm có Tầm kiều, Phiêu chỉ mà võ sư Nam Anh đã nói như trên, Vịnh Xuân quyền trên toàn quốc tế đều chỉ có một bài quyền Tiểu Niệm đầu ; nhưng những chi phái thêm đòn thế sửa thứ tự chút ít cho độc lạ hệ phái mà thôi, coi như ” Đại đồng tiểu dị ” .

Tiểu niệm đầu ( Siu Nim Tao 小念頭 ).

Phục thủ trong bài Tiểu niệm đầu.Nhị tự kiềm dương mã với chiêu thứctrong bài Tiểu niệm đầu .Khác với những võ phái dựa trên cơ sở cơ bản là phải rèn luyện vững vàng mã bộ ( tấn pháp ) và ngoại lực trước khi khởi đầu được truyền dạy những bài quyền tiên phong, ngay từ những ngày đầu nhập môn Vịnh Xuân quyền, môn đồ đã được truyền dạy Tiểu niệm đầu. Bài quyền này còn có những tên gọi khác như Tiểu luyện đầu, Tiểu hình ý, Tam bái phật .Đây là bài là cơ bản để môn sinh thành thạo những thủ pháp đặc trưng của Vịnh Xuân như than thủ, bàng thủ, cổn thủ, nhật tự xung quyền, khuyên thủ, tán thủ, phục thủ, phách thủ, đấm tam tinh còn gọi là tam tinh chùy là triển khai đấm liên tục ba cái trong một nhịp tiến công v.v. trên một tấn pháp duy nhất từ đầu đến cuối bài là chính thân Kiềm dương mã .Việc làm quen tấn pháp này với sự phối hợp thủ pháp ( những chiêu thức của bài đều xuất phát từ trung tuyến ), được cho phép môn sinh rút ngắn được thời hạn rèn luyện bởi ngay từ những ngày đầu đến với môn phái đã được rèn luyện không chỉ mã bộ mà cả những chiêu thức nền tảng .Dưới đây là lời thiệu ( ca quyết 歌訣 ) bài Tiểu niệm đầu theo Diệp Chuẩn và Lương Đĩnh. Cần quan tâm rằng Lương Đĩnh ( Lueng Ting ) – quyền chưởng môn Lưu phái Vịnh xuân Hồng Kông đã có một số ít cải biên về quyền pháp của Vịnh Xuân, hoàn toàn có thể thấy rõ trong Tiểu niệm đầu và Tầm kiều. Theo Diệp Chuẩn ( tự nhận là Vịnh xuân gốc – Original Wing chun ) : thức 10, 11 cách diễn quyền không như trong ca quyết :

  1. Mã khai bán bộ chi nhị tự kiềm dương mã 馬開半步之二字拑陽馬
  2. Giao thoa than thủ – giao thoa bát thủ – cổn thủ thâu quyền 交叉攤手 – 交叉撥手 – 滚手收拳
  3. Nhật tự xung quyền – khuyên thủ thâu quyền (tả – hữu) 日字沖拳 – 圈手收拳
  4. Than thủ – bán khuyên thủ – hộ thủ – phục thủ 攤手 – 半圈手 – 護手 – 伏手
  5. Trắc chưởng – chánh chưởng – than thủ – khuyên thủ thâu quyền 側掌 – 正掌 -攤手 -圈手收拳
  6. Tả hữu án thủ – hậu án thủ – tiền án thủ 左右按手 – 後按手 – 前按手
  7. Lan thủ – phất thủ – lan thủ – song chẩm thủ – tiêu chỉ thủ 攔手 – 拂手 – 攔手 – 雙枕手 – 標指手
  8. Trường kiều án thủ – song đề thủ – thâu quyền 长橋按手 – 雙提手 – 收拳
  9. Trắc chưởng – hoành chưởng thâu quyền 側掌 -橫掌- 收拳
  10. Than thủ – chẩm thủ – quát thủ 攤手 – 枕手 – 括手
  11. Lao thủ – hạ lộ hoành chưởng – thâu quyền 撈手 – 下路橫掌- 收拳
  12. Bàng thủ – than thủ – ấn chưởng – thâu quyền 膀手 – 攤手 -印掌- 收拳
  13. Thoát thủ – liên hoàn xung quyền – thâu cước 脫手 – 連環沖拳 – 收腳

Lời thiệu bài Tiểu niệm đầu theo Lương Quan Mãn :

  1. Khai thung mã
  2. Song giao tiễn
  3. Bài chỉ
  4. Phật chưởng
  5. Sát thủ
  6. Lạp thủ
  7. Xí chưởng
  8. Than thủ
  9. Bàng thủ
  10. Thoát thủ

Tầm kiều ( Chum Kiu 尋橋 ).

Như tên gọi của bài, tầm kiều (tìm cầu) chỉ rõ mục đích bài là tìm cây cầu nối giữa công và thủ, hoặc, tiếp được tay đối phương để từ đó phát hiện sơ hở tấn công. Bài chú trọng luyện chuyển bộ theo bộ pháp xước mã đặc biệt của môn phái với thế tấn trắc thân kiềm dương.

Lúc tiến theo thế ” đạp bộ ” hay còn gọi là ” leo núi “, chân trước bước kéo chân sau theo, trọng tâm thân thể luôn đặt tại chân sau. Lúc kẻ địch tiến công, thế ” chuyển mã ” dời TT tuyến và dẫn đòn đối thủ cạnh tranh vào khoảng chừng không. Đây là triết lý ” dùng bộ pháp tìm tay ( tầm kiều ) đối thủ cạnh tranh “, ” dùng eo xoay phá giải đòn công của địch ” .Bài có ba thế cước đề thoái, trực đăng thoái và trắc sanh thoái, dùng chân trước để đá, chân vừa đá liền tiến một bước tới để nhập nội liên hoàn đả kích đối thủ cạnh tranh. Những đòn tay mới được trình làng trong bài là chánh thân vấn thủ, phê tranh, xuyên kiều, trắc thân án thủ, trừu chàng quyền, đàn kiều xung quyền .Lời thiệu bài Tầm kiều theo Diệp Chuẩn :

  1. Mã khai bán bộ chi nhị tự kiềm dương mã 馬開半步之二字拑陽馬
  2. Giao thoa than thủ – giao thoa bát thủ – cổn thủ thâu quyền 交叉攤手 – 交叉撥手 – 滚手收拳
  3. Nhật tự xung quyền – khuyên thủ thâu quyền 日字沖拳 – 圈手收拳
  4. Xuyên kiều – chuyển mã cập lan thủ (tả hữu phê tranh) 穿橋 – 轉馬及攔手 (左右批爭)
  5. Song phục thủ – phách thủ – chánh chưởng cập hộ thủ 雙伏手 – 拍手 – 政掌及護手
  6. Chuyển thân lan thủ – giao thoa than thủ – cập chuyển thân bàng thủ 轉身攔手 – 交叉攤手 – 及轉身膀手
  7. Lan thủ xung quyền – phất thủ – phục thủ – thoát thủ – khuyên thủ thâu quyền 攔手沖拳 – 拂手 – 伏手 – 脫手 – 圈手收拳
  8. Cầm lan – trắc thân lan thủ khởi đề thoái 擒攔 – 側身攔手起提腿
  9. Hoành đạp bộ trắc thân bàng thủ – cập trắc thân giao thoa than thủ tam thức 橫踏步側身膀手 – 及側身交叉攤手三式
  10. Trừu chàng quyền – phục thủ – thoát thủ – khuyên thủ thâu quyền 抽撞拳 – 伏手 – 脫手 – 圈手收拳
  11. Trực đăng thoái – đạp bộ đê bàng thủ – cập song than thủ – chánh thân song vấn thủ 直登腿 – 踏步低膀手 – 及雙攤手 – 政身雙問手
  12. Song trất thủ – song ấn chưởng – thâu quyền 雙窒手 – 雙印掌 – 收拳
  13. Chuyển thân trắc sanh thoái – trắc thân án thủ – đàn kiều xung quyền (3 lần) 轉身側撐腿 – 側身按手 – 彈橋沖拳
  14. Liên hoàn xung quyền – khuyên thủ thâu thức 連環沖拳 – 圈手收式

Lời thiệu bài Tầm kiều theo Lương Quang Mãn :

  1. Khai thung mã
  2. Song giao tiễn
  3. Bài chỉ
  4. Tầm kiều
  5. Lan kiều thủ
  6. Đơn bàng thủ
  7. Song bàng thủ
  8. Tam không thủ

Tiêu chỉ ( Biu Tze 標指 ).

Tiêu chỉ hay Phiêu chỉ ( phóng ngón tay ) cho thấy ý thức của bài. Đây là Lever tột cùng để chiến đấu tự do, với những ngón tay duỗi thẳng xỉa dẫn đạo linh động thay vì một nắm đấm có đặc thù cương mãnh .Bài vận dụng nguyên tắc ” dĩ công vi thủ ” ( lấy công làm thủ ), ” dĩ đả vi tiêu ” ( lấy đánh làm hóa giải ), ” hậu phát dĩ tiên chí ” ( ra đòn sau nhưng đến trước ), ” dùng eo phát lực ” ( bắt buộc phải phối hợp trắc thân Kiềm Dương mã + Mai Hoa bộ và Báo bộ có như vậy phát đòn mới nhanh và mạnh được mặc dầu đối thủ cạnh tranh có mặc áo giáp và đang vận động và di chuyển né đòn nhưng khi trúng đòn vẫn bị chấn thương và nội thương như thường ; đây cũng là một trong những tuyệt kỹ của quyền Vịnh Xuân mà chỉ 1 số ít rất ít đệ tử nhập thất được truyền dạy mà thôi, khi đã học biết rồi thì sẽ nhận thấy nó rất là bá đạo đúng như lời ông Lục Viễn Khai đã nói. Nên đại đa số môn đồ Vịnh Xuân khi chưa được học, chưa biết, chưa thấy cứ tập luyện 5 năm 10 năm mà chỉ hiểu một cách mù mờ ; nếu ngộ tánh cao thì cũng chỉ đạt thành tựu khoảng chừng vài Xác Suất mà thôi. Phương pháp vận dụng vừa kể là tinh túy của tổng thể bài vận dụng nguyên tắc đã viết ở trên ), ” lực quán chỉ ” .Những kỹ thuật mới là quải tranh, trắc thân vấn thủ, thượng hạ sạn thủ, khuyên cát thủ, thượng hạ canh thủ và bộ pháp khấu bộ. Riêng thế đánh chỏ, chi phái Hồng Kông chỉ có một đòn ( chỏ đánh chéo từ trên xuống ), sau Diệp Chuẩn thêm hai thế khác : phê trửu ( chỏ đánh ngang ) và cập chữu ( chỏ đánh chéo từ dưới lên ) bổ trợ từ chi phái Quảng Đông, cho bài một sắc thái đặc biệt quan trọng linh động .Lời thiệu bài Tiêu chỉ theo Diệp Chuẩn :

  1. Mã khai bán bộ chi nhị tự kiềm dương mã 馬開半步之二字拑陽馬
  2. Giao thoa than thủ – giao thoa bát thủ – cổn thủ thâu quyền 交叉攤手 – 交叉撥手 – 滚手收拳
  3. Nhật tự xung quyền (tiêu chỉ thủ) – khuyên cát thủ thâu quyền 日字沖拳(標指手) – 圈割手收拳
  4. Chuyển thân quải tranh (tam thức) – tiêu chỉ thủ thâu quyền 轉身枴爭 (三式) – 標指手收拳
  5. Khẩu bộ – chuyển thân quải tranh – tiêu chỉ thủ – thượng lộ sạn thủ 口步 – 轉身枴爭 – 標指手 – 上路鏟手
  6. Phất thủ – phục thủ – thoát thủ – khuyên thủ thâu quyền 拂手 – 伏手 – 脫手 – 圈手收拳
  7. Chuyển thân quải tranh – tiêu chỉ thủ – hạ lộ sạn thủ 轉身枴爭 – 標指手 – 下路鏟手
  8. Phất thủ – phục thủ – thoát thủ – khuyên thủ thâu quyền 拂手 – 伏手 – 脫手 – 圈手收拳
  9. Chuyển thân thượng hạ canh thủ (tam thức) – phục thủ – thoát thủ – khuyên thủ thâu quyền (tả – hữu) 轉身上下耕手 (三式) – 伏手 – 脫手 – 圈手收拳
  10. Trắc thân vấn thủ (tam thức) – chẩm thủ – chuyển thân phục thủ – thoát thủ – khuyên thủ thâu quyền (tả – hữu) 側身問手(三式) – 枕手 – 轉身伏手 – 脫手 – 圈手收拳
  11. Tiêu chỉ thủ (tứ thức) – chuyển thân thượng lộ sạn thủ – phất thủ – phục thủ – thoát thủ – khuyên thủ thâu quyền (tả – hữu) 標指手 (四式) – 轉身上路鏟手 – 拂手 – 伏手 – 脫手 – 圈手收拳
  12. Cầm nã thủ – trừu chàng quyền – ấn chưởng thâu quyền 擒拿手 – 抽撞拳 – 印掌收拳
  13. Tam cúc cung đại huýnh hoàn thủ (tam thức) 三掬弓大迥還手(三式)
  14. Liên hoàn xung quyền – khuyên thủ thâu quyền 連環沖拳 – 圈手收式

Lời thiệu bài Tiêu chỉ theo Lương Quang Mãn :

  1. Khai thung mã
  2. Song giao tiễn
  3. Bài chỉ
  4. Cập trửu
  5. Quải trửu
  6. Phê trửu
  7. Nhị đồng thủ
  8. Dương thủ
  9. Tháp chùy
  10. Bái Phật

Mộc nhân trang quyền pháp ( Muk Yan Chon Kuen Faat 木人桩 拳 法 ).

Võ sư Lô Văn Cẩm trong thức Hộ thủ vào tay với mộc nhân thung cổn thủ trên mộc nhân thungChiêu thứctrên mộc nhân thung

Ở Việt Nam, đa số các chi lưu Vịnh Xuân đều dịch tên bài quyền này là Mộc nhân thung (木人舂, Thật ra tên gọi đúng phải là Mộc nhân trang (木人桩, phát âm theo tiếng Quảng Đông là Mụk Yàn Chón). Trang có nghĩa là bày ra, sắp xếp ra mà ý nghĩa của mộc nhân là bày sắp ra các chi (tay chân) trên dưới để tiện cho việc luyện tập, trong khi thung có nghĩa là cọc gỗ hay trụ gỗ được chôn xuống đất.

Mộc nhân thung ( 木人舂 ) cũng có tính năng như mộc nhân trang ( 木人桩 ) dùng để luyện tập quyền cước ( những món binh khí của tay chân mà võ thuật Nước Trung Hoa gọi là những thủ hình ), nhưng Mộc nhân thung thì không có những phần tay chân ( chi ) lắp vào mà đó chỉ là những trụ gỗ chôn xuống đất có bó rơm trên 3 vùng Thượng ( trên ) – Trung ( giữa ) – Hạ ( dưới ) được dùng để luyện tay chân va chạm công phá mà những võ phái miền Nam Trung Quốc và những chi lưu Karate tại Okinawa, Nhật Bản xuất phát từ những võ phái miền Nam Trung Quốc rất yêu thích trong những bài tập hàng ngày .Lời thiệu bài 116 Mộc nhân trang theo Diệp Vấn :

  1. Tư thế tái chiến (phản kích) (tả thủ) 姿势再战 (反擊) (左手)
  2. Phan cảnh thủ (hữu thủ) 攀颈手 (右手)
  3. Hữu bàng thủ – tả hộ thủ 右膀手 – 左護手
  4. Hữu than thủ – hạ lộ tả hoành chưởng 右攤手 – 下路左橫掌
  5. Thượng hạ canh thủ 上下耕手
  6. Cổn thủ (thượng hạ canh thủ nghịch) 滚手 (上下耕手逆)
  7. Tả than thủ – hạ lộ hữu hoành chưởng 左攤手 – 下路右橫掌
  8. Thượng hạ canh thủ 上下耕手
  9. Hữu khấu thủ – tả thác thủ 右扣手 – 左托手
  10. Tả trất thủ – hữu ấn chưởng 左窒手 – 右印掌
  11. Tư thế tái chiến (phản kích) (hữu thủ) 姿势再战 (反擊) (右手)
  12. Hữu trất thủ – tả ấn chưởng 右窒手 – 左印掌
  13. Tả bàng thủ – hữu hộ thủ 左膀手 – 右護手
  14. Tả than thủ – hạ lộ hữu hoành chưởng 左攤手 – 下路右橫掌
  15. Thượng hạ canh thủ 上下耕手
  16. Cổn thủ (thượng hạ canh thủ nghịch) 滚手 (上下耕手逆)
  17. Hữu than thủ – hạ lộ tả hoành chưởng 右攤手 – 下路左橫掌
  18. Thượng hạ canh thủ 上下耕手
  19. Tả khấu thủ – hữu thác thủ 左扣手 – 右托手
  20. Hữu trất thủ – hạ lộ tả hoành chưởng 右窒手 -下路左橫掌
  21. Hữu nội thân phách thủ 右內身拍手
  22. Tả nội thân phách thủ 左內身拍手
  23. Hữu nội thân phách thủ 右內身拍手
  24. Tả ngoại thân phách thủ 左外身拍手
  25. Tả tiêu chỉ thủ 左標指手
  26. Tả trất thủ – hạ lộ hữu nhật tự xung quyền 左窒手 – 下路右日字沖拳
  27. Hữu ngoại thân phách thủ 右外身拍手
  28. Hữu tiêu chỉ thủ 右標指手
  29. Hữu trất thủ – hạ lộ tả nhật tự xung quyền 右窒手 -下路左日字沖拳
  30. Song thác thủ 雙托手
  31. Hạ lộ hữu bàng thủ 下路右膀手
  32. Hữu vấn thủ (trung lộ) 右問手 (中路)
  33. Hữu trắc sanh thoái 右側撐腿
  34. Hạ lộ tả bàng thủ 下路左膀手
  35. Tả vấn thủ (trung lộ) 左問手 (中路)
  36. Tả trắc sanh thoái 左側撐腿
  37. Thượng hạ canh thủ 上下耕手
  38. Hữu khấu thủ – tả thác thủ 右扣手 – 左托手
  39. Tả trất thủ – hữu ấn chưởng 左窒手 – 右印掌
  40. Song than thủ (gạt tay từ ngoài vào) 雙攤手
  41. Quyển thủ (câu liêm thủ) 圈手 (勾鐮手)
  42. Hạ lộ song hoành chưởng 下路雙橫掌
  43. Song than thủ 雙攤手
  44. Thượng lộ song hoành chưởng 上路雙橫掌
  45. Song trất thủ 雙窒手
  46. Hữu khấu thủ – thượng tả canh thủ 右扣手 – 上左耕手
  47. Tả khấu thủ – thượng hữu canh thủ 左扣手 – 上右耕手
  48. Hữu khấu thủ – thượng tả canh thủ 右扣手 – 上左耕手
  49. Tả trất thủ – hữu ấn chưởng 左窒手 – 右印掌
  50. Hữu bàng thủ 右膀手
  51. Trắc thân hữu trực đăng thoái – hữu than thủ – trung lộ tả hoành chưởng 側身右直登腿 – 右攤手 -中路左橫掌
  52. Thượng hạ canh thủ 上下耕手
  53. Tả khấu thủ – thượng hữu canh thủ 左扣手 – 上右耕手
  54. Hữu khấu thủ – thượng tả canh thủ 右扣手 – 上左耕手
  55. Tả khấu thủ – thượng hữu canh thủ 左扣手 – 上右耕手
  56. Chính thân hữu khấu thủ – hạ lộ tả hoành chưởng 政身右扣手 -下路左橫掌
  57. Tả bàng thủ 左膀手
  58. Trắc thân tả trực đăng thoái – tả than thủ – trung lộ hữu hoành chưởng 側身左直登腿 – 左攤手 -中路右橫掌
  59. Thượng hạ canh thủ 上下耕手
  60. Hữu khấu thủ – tả thác thủ 右扣手 – 左托手
  61. Tả trất thủ – hữu ấn chưởng 左窒手 – 右印掌
  62. Tiên hữu phục thủ – hậu hữu phất thủ 先右伏手 – 後右拂手
  63. Tiên hữu phục thủ – hậu hữu phất thủ 先右伏手 – 後右拂手
  64. Tiên hữu phục thủ – hậu hữu phất thủ 先右伏手 – 後右拂手
  65. Hữu khấu thủ – hạ lộ tả hoành chưởng 右扣手 -下路左橫掌
  66. Cổn thủ (thượng hạ canh thủ nghịch) 滚手 (上下耕手逆)
  67. Chính thân bão bài chưởng (thượng hữu thủ – hạ tả thủ) 政身抱排掌 (上右手 – 下左手)
  68. Tả bàng thủ 左膀手
  69. (Tả cước tấn bộ) Trắc thân bão bài chưởng (hạ hữu thủ – thượng tả thủ) (左腳晉步) 側身抱排掌(下右手 -上左手)
  70. (Tả cước hồi bộ) Thượng hạ canh thủ (thượng hữu thủ – hạ tả thủ) (左腳回步) 上下耕手(上右手 – 下左手)
  71. Chính thân bão bài chưởng (thượng hữu thủ – hạ tả thủ) 政身抱排掌 (上右手 – 下左手)
  72. Hữu bàng thủ 右膀手
  73. (Hữu cước tấn bộ) Trắc thân bão bài chưởng (thượng hữu thủ – hạ tả thủ) (右腳晉步) 側身抱排掌(上右手 – 下左手)
  74. (Hữu cước hồi bộ) Thượng hạ canh thủ (hạ hữu thủ – thượng tả thủ) (右腳回步) 上下耕手 (下右手 -上左手)
  75. Tả khấu thủ – hữu phục thủ 左扣手 – 右伏手
  76. Hữu trất thủ – hạ lộ tả hoành chưởng 右窒手 -下路左橫掌
  77. Thượng hạ canh thủ (thượng hữu thủ – hạ tả thủ) 上下耕手(上右手 – 下左手)
  78. Thượng hạ canh thủ (hạ hữu thủ – thượng tả thủ) 上下耕手(下右手 -上左手)
  79. Hữu bàng thủ 右膀手
  80. Hữu cầm nã thủ – tả sát cảnh thủ 右擒拿手 – 左殺頸手
  81. Tả phách thủ – hữu sạn thủ 左拍手 – 右鏟手
  82. Tả bàng thủ 左膀手
  83. Tả cầm nã thủ – hữu sát cảnh thủ 左擒拿手 – 右殺頸手
  84. Hữu phách thủ – tả sạn thủ 右拍手 – 左鏟手
  85. Hữu bàng thủ 右膀手
  86. Tả trực đăng thoái – hữu than thủ – trung lộ tả hoành chưởng 左直登腿 – 右攤手 – 中路左橫掌
  87. Tả bàng thủ 左膀手
  88. Hữu trực đăng thoái – tả than thủ – trung lộ hữu hoành chưởng 右直登腿 – 左攤手 – 中路右橫掌
  89. Thượng hạ canh thủ (thượng hữu thủ – hạ tả thủ) 上下耕手(上右手 – 下左手)
  90. Hữu khấu thủ – tả thác thủ 右扣手 – 左托手
  91. Tả trất thủ – hữu ấn chưởng 左窒手 – 右印掌
  92. Hạ lộ hữu bàng thủ 下路右膀手
  93. Hạ lộ tả bàng thủ 下路左膀手
  94. Hạ lộ hữu bàng thủ 下路右膀手
  95. Hữu sạn thủ – chính thân tả trực đăng thoái 右鏟手 – 政身左直登腿
  96. Chính thân tả trắc sanh thoái – hữu hộ thủ – tả bàng thủ政身左側撐腿 – 右護手 – 左膀手
  97. Hạ lộ tả bàng thủ 下路左膀手
  98. Hạ lộ hữu bàng thủ 下路右膀手
  99. Hạ lộ tả bàng thủ 下路左膀手
  100. Tả sạn thủ – chính thân hữu trực đăng thoái 左鏟手 – 政身右直登腿
  101. Chính thân hữu trắc sanh thoái – tả hộ thủ – hữu bàng thủ 政身右側撐腿 – 左護手 – 右膀手
  102. Hạ lộ hữu khấm thủ 下路右撳手
  103. (Hữu cước tấn bộ) Trắc thân tả phách thủ – hạ lộ hữu hoành chưởng (右腳晉步) 側身左拍手 – 下路右橫掌
  104. Hạ lộ tả khấm thủ 下路左撳手
  105. (Tả cước tấn bộ) Trắc thân hữu phách thủ – hạ lộ tả hoành chưởng (左腳晉步) 側身右拍手 – 下路左橫掌
  106. Hạ lộ hữu khấm thủ 下路右撳手
  107. Trắc thân tả phách thủ – hữu trực đăng thoái 側身左拍手 – 右直登腿
  108. Hạ lộ tả khấm thủ 下路左撳手
  109. Trắc thân hữu phách thủ – tả trực đăng thoái 側身右拍手 – 左直登腿
  110. Thượng lộ hữu bàng thủ 上路右膀手
  111. Trắc thân song cầm nã thủ – hữu tảo thoái 側身雙擒拿手 – 右埽腿
  112. Thượng lộ tả bàng thủ 上路左膀手
  113. Trắc thân song cầm nã thủ – tả tảo thoái 側身雙擒拿手 – 左埽腿
  114. Thượng hạ canh thủ (thượng hữu thủ – hạ tả thủ) 上下耕手(上右手 – 下左手)
  115. Hữu khấu thủ – tả thác thủ 右扣手 – 左托手
  116. Tả trất thủ – hữu ấn chưởng 左窒手 – 右印掌
  117. Song thác thủ – thâu cước hồi thức 雙托手 – 收腿回式

Hệ thống ngũ hình quyền ( Vịnh Xuân Nước Ta ).

Hệ thống ngũ hình quyền với năm con linh thú ( Long, Hổ, Báo, Xà, Hạc ) nằm trong chương trình rèn luyện của 1 số ít dòng phái Vịnh Xuân quyền tại Thành Phố Hà Nội, Nước Ta như Vĩnh Xuân Nội gia quyền, Vĩnh Xuân Ngô gia Hoàng pháp và hiện cũng đã được tập luyện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Không ai biết đúng mực mạng lưới hệ thống này bắt nguồn từ khi nào, nhưng chắc như đinh nó có nguồn gốc từ Thiếu Lâm Tự. Rất hoàn toàn có thể phát xuất từ Bạch Ngọc Phong đời nhà Nguyên Trung Hoa, khi ông nương theo bài La Hán Thập Bát Thủ gồm 18 thế tay của vị phật A La Hán của Thiếu Lâm để chế ra Ngũ Hình quyền gồm những bài quyền dựa theo những con thú nói trên và một bài tổng hợp của năm con thú .Sau này, trải qua một tiến trình lịch sử vẻ vang dằng dặc, mạng lưới hệ thống ngũ hình đã được trau chuốc, tinh lọc, sửa đổi rất nhiều. Đáng chú ý quan tâm là sự bổ trợ của mạng lưới hệ thống này vào kỹ pháp những dòng phái Vịnh Xuân quyền Nước Ta. Khi điều tra và nghiên cứu 6 bài quyền ( Ngũ hình quyền tổng hợp, Long quyền, Hổ quyền, Báo quyền, Xà quyền, Hạc quyền ), mặc dầu đã không ít có sự hòa hợp của mạng lưới hệ thống này so với những công phu Vịnh Xuân quyền truyền thống cuội nguồn, người tập vẫn thuận tiện nhận ra một số ít độc lạ : tính đơn thế và đặc thù trường quyền .

Lý giải về sự có mặt của ngũ hình quyền pháp trong Vịnh Xuân quyền Việt Nam không ngoài câu trả lời: sư tổ Tế Công là người am hiểu nhiều dòng phái võ thuật Trung Hoa, khi giảng dạy cho các môn sinh tại Việt Nam, dù vẫn nhấn mạnh công phu Vịnh Xuân, ông cũng có sự kết hợp với các dòng phái khác cho phù hợp với thể chất và năng khiếu của mỗi môn đồ. Lý giải điều đó cũng giúp ta nhận ra tại sao các dòng Vịnh Xuân tại Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống bài quyền khác biệt với miền Bắc, và nhiều võ sư Vịnh Xuân quyền Việt Nam đã phát triển môn phái theo các hướng khác nhau, dù cùng xuất xứ từ tổ sư.

Cũng cần chú ý quan tâm rằng, tương truyền Nguyễn Tế Công đã gia nhập mạng lưới hệ thống Ngũ Hình quyền từ Thiếu Lâm vào Vịnh Xuân vì Nguyễn Tế Công đã từng học qua Thiếu Lâm quyền truyền thống cuội nguồn, nhưng trong mạng lưới hệ thống Ngũ Hình quyền này từ Nguyễn Tế Công cho thấy không giống Ngũ Hình quyền của Thiếu Lâm. Ngũ Hình quyền là một mạng lưới hệ thống quyền pháp nổi tiếng tại chùa Thiếu Lâm ( Tung Sơn, Hà Nam ) và tại chùa Nam Thiếu Lâm ( Phúc Kiến ). Hệ thống Ngũ Hình quyền tại chùa Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến còn sống sót sót lại trong mạng lưới hệ thống quyền pháp của Thiếu Lâm Hồng gia và Bạch Mi quyền rất rõ nét của Thiếu Lâm quyền còn vương lại nhưng cũng không giống trọn vẹn với Ngũ Hình quyền của Thiếu Lâm ( Tung Sơn, Hà Nam ) .Hệ thống những bài ngũ hình quyền của 1 số ít chi lưu Vịnh Xuân Quyền Nước Ta gồm có 6 bài quyền :

Khí công quyền ( Vịnh Xuân Nước Ta ).

Bài Khí công quyền ( một số ít dòng Vịnh Xuân gọi là Bối khí quy chi ) sử dụng những nguyên tắc và chiêu thức như Ngũ cầm hí của danh y Hoa Đà, chủ luyện khí và lực, rất thích hợp cho dưỡng sinh. Thủ pháp của bài được luyện trên bộ pháp kiềm dương tấn. Bài phân loại rõ ràng thành nhiều phần bằng việc chuyển vị từ chính thân kiềm dương sang trắc thân kiềm dương bên phải và bên trái .
Hệ thống đòn tay Vịnh Xuân được nhìn nhận là vô cùng linh động và hữu hiệu, nhưng nhiều người không biết rằng môn phái còn có những đòn chân rất độc lạ. Có quan điểm cho rằng cước pháp của Vịnh Xuân quyền chỉ có 16 đòn ( đúng mực là 8 đòn cho mỗi bên chân ), có lẽ rằng dựa trên mạng lưới hệ thống rèn luyện ( thấy rõ trong bài tập Mộc nhân ) của dòng Vịnh Xuân Diệp Vấn tại Hồng Kông. Thực tế cước pháp Vịnh Xuân phong phú hơn nhiều, gồm có cả những chiêu thức dùng chân ở tầm cực thấp với những đòn chấn khớp có uy lực kinh khủng và những chiêu thức đánh vào sự cân đối của đối thủ cạnh tranh .Tuy nhiên, do nguyên tắc ” túc bất ly địa ” ( chân không rời khỏi mặt đất ) của Vịnh Xuân, cước pháp Vịnh Xuân chỉ truyền dạy cho học trò hạng sang sau khi môn sinh đã rèn luyện tốt sự cân đối và có sự phối hợp với thủ pháp thuần thục. Vịnh Xuân quyền truyền thống cuội nguồn không tôn vinh những đòn đá xoay người, đá bay và cũng rất khan hiếm những đòn đá quá tầm trung đẳng [ 4 ]. Công phu cước là niêm cước, một hình thức tập luyện dính chân tựa như niêm thủ .Vịnh xuân Hồng Kông thường dùng nhiều Triệt cước trong thực chiến cũng như luyện Niêm cước, ngoài những hoàn toàn có thể kể thêm : Bàng cước, Than cước, Trất cước, Trảm cước, Đỉnh cước, Hoành cước, Thúc gối … Tảo cước ít dùng để quét thấp như những võ phái truyền thống Nước Ta. Trong Niêm cước khi ‘ biến chiêu ‘ tiến công, Lương Đĩnh có chỉ dạy 1 thế cước cao chân của Vịnh Xuân Hồng Kông là đá thốc gót thẳng lên cổ đối phương, nó như Đỉnh cước nhưng dùng đá cao .

Lục điểm bán côn.

Bài Lục điểm bán côn sử dụng cây côn ( gậy ) rất dài, thường bằng cao độ của người rèn luyện cộng thêm phần cánh tay giơ cao ( khoảng chừng 2 thước rưỡi ), có lẽ rằng nguồn gốc khởi đầu cây sào chống thuyền của những môn đồ Hồng thuyền. Ở Nước Ta bài côn này hoàn toàn có thể được tập với tề mi côn ( côn ngắn đến lông mày ). Theo Lương Đĩnh, bài Lục điểm bán côn có bảy thế côn cơ bản là : Thương, Khuyên cái, Thiêu, Bát, Trửu, Đàn và Bán già .Côn pháp tuy số lượng giới hạn về chiêu thức nhưng được tương hỗ bởi nguyên tắc ” tuỳ địch chi biến nhi biến ” ( tùy theo cái biến của địch mà đổi khác ), ” dĩ vô chiêu thắng hữu chiêu ” ( lấy không có chiêu thức để thắng có chiêu ) và chiêu thức niêm côn. Phương pháp niêm côn tựa như như niêm thủ, hai côn giao nhau hoạt động theo khuyên côn ( xoay vòng ), từ đó ta tìm hay tạo sơ hở, kiềm chế hay đánh rơi côn đối phương để tiến nhập tiến công bụng, ngực, cổ họng hay màng tai kẻ địch bằng những thế tiêu long thương, bán già … Ngoài ra, cũng thường thấy tại những võ đường Vịnh Xuân tuy nhiên luyện ” đao côn phối triển “, với tuy nhiên đao ( vũ khí ngắn ) và trường côn ( vũ khí dài ) cùng được chiết chiêu, tập luyện, tuy nhiên đấu .

Bát trảm đao.

Bát trảm đaoTùy chi phái, cây đao sử dụng trong bài còn được gọi là Ngân Loan đao, Song tô, Trủy thủ hay Dao quai, và bài còn có tên gọi là Hồ điệp đao, Hồ điệp tuy nhiên đao hay Nhị tự tuy nhiên đao. Bài sử dụng loại đao ngắn cỡ trung bình, khoảng chừng bằng độ dài cẳng tay người tập cộng với một bàn tay xòe thẳng ( chuôi đao hoàn toàn có thể nằm gọn trong lòng bàn tay, và lưỡi đao chập theo cẳng tay trong 1 số ít động tác của bài. Chuôi đao có một vòng thép tạo thành quai, ngoài tính năng bảo vệ tay cầm đao còn giúp loan đao linh động .Bài Bát trảm đao chia làm 8 đoạn ( bát trảm ) với mỗi đoạn là một thế đao chính. Theo Diệp Vấn, tám đoạn của bài là :

  1. Đao thức
  2. Lập trảm đao
  3. Than trảm đao
  4. Song canh đao
  5. Cổn bàng đao
  6. Nhất tự đao
  7. Vấn đao
  8. Quải đao

Tương tự côn pháp, đao pháp vận dụng nguyên tắc kiềm chế hay đánh rơi binh khí đối phương để nhập nội bảo đảm an toàn kết thúc trận đấu. Tương truyền, Diệp Vấn chỉ dạy bài Bát trảm đao cho bốn đệ tử. Tuy nhiên lúc bấy giờ nhiều bài đao khác nhau mang tên Bát trảm đao nên khó phân biết được bài nào được chân truyền từ Diệp Vấn .

Các binh khí khác.

Các binh khí khác ít thông dụng hơn và chỉ được tập luyện hạn chế tại một số ít dòng phái gồm phi tiêu, trường kiếm, liễu diệp kiếm, tề mi côn, Trường Côn, Đoản Côn, thậm chí còn có cả đại đao. Khi ông Nguyễn Tế Công truyền đao pháp cho ông Lục Viễn Khai tại miền Nam được gọi là ” Ngân Loan Đao ” và những đệ tử thường gọi là Song đao, toàn bộ đòn thế đều vận dụng trong bài quyền Tiểu Niệm Đầu ( 36 điểm thủ ) phối hợp với Kiềm dương Mai Hoa bộ và Báo bộ ; vì yếu lĩnh của đao pháp Vịnh Xuân này là để bổ trợ để nối dài cho tay tức là quyền thủ được nối dài thêm .Hình ảnh của bộ tuy nhiên đao ngắn này cũng giống như những bộ tuy nhiên đao mà tất cả chúng ta thường gặp nơi những đội lân sư dùng để trình diễn nhưng trong trong thực tiễn chiến đấu sống còn thì dao chặt thịt, chặt xương bất kể loại dao gì kể cả cây gổ 3 phân vuông ngắn cũng đều hoàn toàn có thể đem sử dụng được hết ; vì đâu có ai lại giắt cặp tuy nhiên đao trong người mà ra đường đâu. Trong rèn luyện đao pháp này thì đệ tử sử dụng cây mây đường kính khoảng chừng 2,5 cm dài khoảng chừng 6 tấc trên đầu cây quấn khoảng chừng 5 vòng ruột xe đạp điện để giảm bị tét thịt khi trúng đòn trong lúc tập luyện. Vì có vận dụng ” đoản kình ” nên khi gặp đối thủ cạnh tranh biết Thần quyền đao kiếm chém không vô thì với đao pháp của Vịnh Xuân quyền này thì chém vô tuốt và vị Thần đang nhập xuất ra liền .Đao pháp này chỉ thấy ông Lục Viễn Khai truyền cho khoảng chừng 5 người đệ tử mà thôi ; ông cũng cho biết sử dụng thuần thục đao pháp này thì sẽ nâng cao uy lực của quyền cước nên khi ra quyền hay cước thì vận tốc nhanh và mạnh vô cùng trúng đòn là gục mặc dầu là tiềm năng di động, vì trong giao đấu đâu có ai đứng chôn chân một chỗ cho mình đánh đâu ( năm 1977 tại Q. 5 Thành phố Hồ Chí Minh ông Lục Viễn Khai cùng một người đệ tử đã học bộ đao pháp này cùng thị phạm cho 1 số ít đệ tử theo ông học khoảng chừng 5 năm cho đến 10 năm cùng 1 số ít đồ tôn, đồ chắt ; toàn bộ hỏi ông rằng : Sao ra đòn không thấy kịp .Ông vấn đáp rằng : Vì đây là ” vô ảnh quyền và vô ảnh cước ” như vậy thì thấy cả thầy và trò đều ra đòn nhanh như thế nào ). Vịnh Xuân quyền khi đã học sâu sẽ thấy nó rất bá đạo, ra đòn rất tàn độc nên ông chỉ truyền cho vài đệ tử nhập thất mà thôi, đồng thời ông cũng nói rỏ ràng là người thầy truyền dạy Vịnh Xuân quyền chỉ hoàn toàn có thể dạy 4 người trở lại mà thôi thì đệ tử mới sử dụng được trong giao đấu thực tiễn, nếu một lần truyền dạy từ vài chục người như những môn phái khác thì coi như vứt đi không hề giao đấu trong trong thực tiễn được mặc dầu học 10 năm 20 năm chỉ hoàn toàn có thể đem ra múa may biểu diển trong những đoàn lân sư mà thôi .Bộ đao pháp này cũng được tập với ” mộc nhân trang ” để tập đòn thế và luyện ” đoản kình “, đồng thời cũng coi như tập luyện phản xạ có điều kiện kèm theo. Quá trình tập luyện rất khó khăn ; cả thầy và trò đều bị tét thịt, dập tay chảy máu như cơm bữa mặc dầu tập với nhau bằng cây mây đầu cây đã quấn mấy lớp ruột xe đạp điện nhưng lực phát ra vẫn làm tét thịt như chơi. Vì quá bá đạo nên ông chỉ truyền cho vài đệ tử hoàn toàn có thể đếm trên đầu ngón tay và nhu yếu không phổ cập, mà chỉ truyền cho một hay hai người có tư cách đạo đức tốt để khỏi bị thất truyền. Nữ võ sư Lý Huỳnh Yến khoảng chừng năm 1978 đã từng năn nỉ ông truyền cho bộ đao pháp này nhưng hình như chưa được học vì đến năm 1979 ông Lục Viễn Khai mất .

Hệ thống công phu.

Tôn sư Diệp Vấn đang vào tay ( niêm thủ ) cùng người đệ tử trẻ 18 tuổi Lý Tiểu Long

Ngoài 4 bài quyền, Vịnh Xuân có phép luyện tay nghe lực còn gọi là phép thính kình hay phép du đẩy đối phương tựa như phép Thôi thủ (đẩy tay) trong Thái Cực quyền, phương pháp này trong các chi lưu Vịnh Xuân Việt Nam thường gọi là Niêm thủ nhưng hầu hết các chi lưu Vịnh Xuân trên thế giới và tại Trung Quốc, Hong Kong gọi là Ly thủ. Ly thủ gồm có Đơn ly thủSong ly thủ.

Phương pháp niêm thủ ( tay dính nhau ) tăng trưởng phản xạ đôi tay, môn sinh nhập nội vừa tiếp tay đối phương là tìm được sơ hở, tức thì tiến công. Chủ đích là đạt tới trình độ hai tay đánh đỡ không cần tâm lý ( tâm ứng thủ ). Niêm thủ gồm có trong đó cả những động tác quay tay, những nguyên tắc du đẩy và phá du đẩy cùng những thế đặc trưng của Vịnh Xuân như than thủ, bàng thủ v.v. và được tập luyện cùng đồng môn trong suốt tiến trình võ sinh theo học .

Đơn niêm thủ ( Đơn ly thủ ).

Đơn niêm thủ ( tập niêm thủ một tay ) được dạy tích hợp cùng bài Tiểu niệm đầu và hầu hết lấy những chiêu thức trong bài ra để tuy nhiên đối. Đơn niêm thủ tích hợp theo một chu kì những thế than thủ, phục thủ, chánh chưởng, chẩm thủ, nhật tự xung quyền, bàng thủ, và chú trọng sự chuyển biến giữa hai thế than thủ và bàng thủ .

Song niêm thủ ( Song ly thủ ).

Song niêm thủ ( dính hai tay ) mở màn với bàng thủ và tiếp với chiêu thức ” nhất phục nhị ” để ở đầu cuối tới niêm thủ tự do, vận dụng nguyên tắc ” bất truy thủ “, ” tá lực xảo đả “, ” tiêu đả đồng thời “, ” tá lực phản đàn, khiêu kiều độ giang “, ” án đầu ngật vĩ “, ” lại lưu khứ tống “, ” súy thủ trực xung ” v.v. Ở những chi phái Vịnh Xuân quyền Nước Ta, tuy nhiên niêm thủ khởi đầu bằng những động tác quay tay và được tập ngay từ ngày tiên phong đến với môn phái. Ở miền Nam ông Nguyễn Tế Công truyền dạy cho ông Lục Viễn Khai ” Song niêm thủ ” phối hợp với Mai Hoa bộ, nên sau đó có 1 số ít đệ tử của ông Lục Viễn Khai học theo chiêu thức trên ; mỗi lần tập phải hơn một giờ đồng hồ đeo tay để đạt được ” Khí Quá Môn “, thành công xuất sắc rồi thì những đệ tử giao đấu liên tục với nhau khoảng chừng 45 phút mà không bị hụt hơi. Đồng thời đây cũng là cách tập phản xạ có điều kiện kèm theo .

Song niêm thủ bịt mắt ( Phong nhãn tuy nhiên ly thủ ).

Là Lever cao nhất của linh giác ( tri giác và cảm xúc ) để tiến tới tuy nhiên đấu tự do với ly thủ ( rời tay ), võ sinh bịt mắt bằng dải băng đen và chỉ còn đặt niềm tin vào năng lực cảm nhận trải qua tiếp xúc với đối phương của bản thân để tránh đòn hay phản công .
Niêm cước được rèn luyện nhằm mục đích tăng trưởng năng lực cảm ứng, nghe lực và sự cân đối của chân. Hai người đứng trên một chân dùng chân kia chạm nhau, tạo sơ hở bằng những đòn móc chân ( khấu thoái ) rồi tiến công bằng những thế đá của môn phái .
Niêm thân ( dính thân ), trong những chi phái Vịnh Xuân quyền tại Nước Ta còn gọi là Trao thân hay Tráo đổi thân, là Lever cao nhất của sự tiếp xúc giữa hai đối thủ cạnh tranh nhằm mục đích hướng đến tiềm năng tăng trưởng sự cảm ứng nhạy bén của hàng loạt khung hình trước tác động lực từ phía đối phương. Đòn đánh của kẻ địch vừa tiếp xúc với thân mình của môn đồ Vịnh Xuân quyền, dựa trên cơ sở thụ cảm tác động lực, môn đồ Vịnh Xuân lập tức hóa giải bằng những động tác xoay thân, triệt tiêu lực, đưa khung hình vượt thoát ra khỏi khoảng trống nguy khốn do đòn tiến công của đối phương gây ra và tạo góc nhìn ra đòn thuận tiện để phản công. Với điều kiện kèm theo vận dụng Mai Hoa bộ và phải biết sử dụng ” đoản kình ” để phản đòn như vậy mới đúng yếu lĩnh của Vịnh Xuân quyền là ” hậu phát dĩ tiên chí ” ( xuất phát sau mà đến trước )

Du đẩy ( Phép thính kình tức ” nghe lực ” ).

Du đẩy hay còn gọi là phép Thính kình tức là các phương pháp tập giao thủ (chạm tay), tiếp thủ (đón tay) của đối phương và nghe (cảm nhận) phương hướng chuyển động của lực tay đối phương mà tùy theo đó để triệt kình (phá lực) của đối phương theo nguyên lý lực ly tâm nghĩa là dùng vòng tròn hóa giải lực chuyển động đường thẳng, đây là phương pháp rất thịnh hành trong các môn võ thuật Trung Hoa bắt đầu thời nhà Minh có một loại quyền pháp xuất hiện gọi là miên quyền (棉拳) – được người Trung Hoa dịch nghĩa sang tiếng Anh là Cotton Fist (quyền mềm như bông), còn gọi là nhu quyền (緜拳 – 綿拳).

Nghiên cứu lịch sử quyền pháp Trung Hoa, ta cũng nhận thấy Thái cực quyền Trần gia do Trần Vương Đình xuất phát tại làng Trần Gia Câu trong tỉnh Hà Nam cũng ra đời vào giữa cuối triều nhà Minh nghĩa là sau khi nhu quyền Trung Quốc ra đời. Trong Thái cực quyền có phép Thôi thủ dùng phương pháp Thính kình (nghe lực đối phương) cũng tựa hệt như phép Du đẩy trong Vịnh Xuân quyền, do vậy trong Thái cực quyền phổ” của Vương Tông Nhạc có câu: Tứ lượng bát thiên cân, dẫn tiến lạc không hợp tức xuất nghĩa là dùng 4 lạng (lấy yếu – dĩ nhu) mà chống đỡ ngàn cân (trị mạnh bạo – chế cương) tương tự như cầm nã thuật của Thiếu Lâm quyền, làm cho đối phương mất thăng bằng và mất phương hướng (dẫn tiến lạc không) rồi sau đó xuất thủ (ra tay) mãnh liệt (hợp tức xuất).

Đây là các bài tập thiên về dùng sức nhằm phát triển nội lực và cảm ứng lực, người tập đứng chính thân kiềm dương hoặc trắc thân kiềm dương lồng tay vào nhau và tiến hành tác động đến đối phương bằng các động tác ép, chặn nghịch chiều. Những bài tập du đẩy thể hiện tính chất đối kháng lực rất nặng với phương pháp hầu như tương phản với những nguyên tắc niêm thủ nói trên thường thiên về nhu hòa, hóa giải lực.

Du đẩy và phá du đẩy hoàn toàn có thể còn được thực thi với những động tác ép, điểm, chặn, đả lên thân ( vùng ngực, bụng, vai, sống lưng v.v. ) đối phương nhằm mục đích tăng cường năng lực cảm ứng lực và chịu lực của từng phần khung hình .

Một số dòng phái.

Phả hệ Vĩnh Xuân quyền Nước Ta .

Hiện nay Vịnh Xuân là một trong số những môn võ phát triển quy mô bậc nhất thế giới, trải rộng trên 140 quốc gia với rất nhiều hệ phái, trong đó có 3 hệ phái chủ đạo do Hiệp hội Vịnh Xuân quyền Thế giới phân loại là Hệ phái Vịnh Xuân quyền Hồng Kông của Đại sư Diệp Vấn (Yip Man); Hệ phái Vịnh Xuân quyền của Đại sư Nguyễn Kỳ Sơn (Yuen Kay San) và Hệ phái Vịnh Xuân Việt Nam được truyền bá tại Hà Nội. Từ năm 1939 đến 1954, ở Hàng Buồm, Hà Nội, thu nhận học trò và truyền dạy Vịnh Xuân khởi phát từ Nguyễn Tế Công. Tuy nhiên, trong Vịnh Xuân quyền toàn tập[5], Robert Chu, Réne Ritchie, Y. Wu đã hệ thống Vịnh Xuân quyền thế giới thành các chi phái sau:

Lưu ý, trong tên Hán tự của những hệ phái, 1 số ít hệ phái ghi rõ ràng Vĩnh Xuân quyền, thay vì Vịnh Xuân quyền .

Các chi phái chính.

  1. Diệp Vấn Vịnh Xuân quyền (Yip Man Wing Chun kwen), phát triển mạnh tại Hồng Kông và nhiều nước phương Tây.
  2. Nguyễn Kỳ Sơn Vịnh Xuân quyền (Yuen Kay San Wing Chun kwen)
  3. Cổ Lao Vịnh Xuân quyền (Gu Lao Wing Chun kwen): phát xuất từ ngôi làng cùng tên.
  4. Nam Dương Vịnh Xuân quyền (Nanyang Wing Chun kwen)
  5. Bành Nam Vịnh Xuân quyền (Pannam Wing Chun kwen)
  6. Bào Hoa Liên Vịnh Xuân quyền (Pao Fa Lien Wing Chun kwen)
  7. Hồng Thuyền Vịnh Xuân quyền (Hung Suen Wing Chun kwen)
  8. Chí Thiện Vịnh Xuân quyền (Jee Shim Wing Chun kwen)

Các chi phái khác.

  1. Phật Sơn Vịnh Xuân Quyền (Fujian Wing Chun kwen)
  2. Hồng Thuyền hí ban Vịnh Xuân Quyền (Hung Sue Hay Ban Wing Chun kwen)
  3. Vịnh Xuân quyền Malaysia (Malaysian Wing Chun kwen): dòng phái phát triển tại Malaysia do công của Diệp Kiên (Yip Kin) từ năm 1930
  4. Thiên thân Vịnh Xuân quyền (Pien San Wing Chun kwen) có gốc khởi từ lương y Lương Tán tại làng Cổ Lao
  5. Vịnh Xuân quyền Việt Nam (Vietnamese Wing Chun) do Nguyễn Tế Công truyền vào từ những năm trước 1945, xin xem thêm Vịnh Xuân Quyền (Việt Nam)
  6. Diêu Kỳ Vịnh Xuân quyền (Yiu Kai Wing Chun kwen)

Các chi phái Vịnh Xuân tổng hợp.

Một số dòng phái như Vịnh Xuân Thái cực quyền là sự phối hợp kỹ pháp của Vịnh Xuân quyền truyền thống cuội nguồn với Thái cực quyền, hoặc Vịnh Xuân Triệt quyền đạo do Lý Tiểu Long khai sáng qua sự tổng hòa kungfu với những môn võ văn minh như Taekwondo, Karatedo, quyền Anh

Các tôn sư môn phái.

Diệp Vấn
Để tiện cho theo dõi tài liệu và phiên dịch một cách có mạng lưới hệ thống về Vịnh Xuân quyền, dưới đây là những mục từ có tương quan đến võ phái Vịnh Xuân được lập dưới dạng list thuật ngữ :

  1. ^ 葉準 , 〈 有關詠春源流之探討 〉 , 1990 年發表於 《 詠春族譜 》 , 刊載於葉問 、 盧德安 、 彭耀鈞合著之 《 葉問 · 詠春 》 , 匯智出版 , 2009 年5月增訂版 , 第180 - 183 頁
  2. ^

    Sổ tay Võ thuật, số 52 (tháng 4 năm 1998) trang 28 (lời đề dẫn trong bài Tiêu chỉ quyền)

  3. ^

    Nguyễn Quí Jacques & Dufresne Thomas, “Vịnh Xuân quyền, truyền thuyết và thực tại”, Báo Sổ Tay Võ thuật số 47, tháng 5 năm 1997

  4. ^ “Shaolin Wing Chun”. Shaolin Wing Chun Nam Anh Kung Fu .
  5. ^

    Robert Chu, René Ritchie, Y. Wu, Complete Wing Chun (the definitive guide to Wing Chun’s history and tranditions (tiếng Anh)

  • Vịnh Xuân quyền – truyền thuyết và thực tại, Nguyễn Quí Jacques và Dufresne Thomas, đăng trên Sổ tay Võ thuật số 47, tháng 5 năm 1997.
  • Mộc nhân thung – phương pháp luyện tập đặc biệt của Vịnh Xuân quyền, Sổ tay Võ thuật, số 52, tháng 4 năm 1998.
  • Cước pháp Vịnh Xuân quyền, Sổ tay Võ thuật, số 52, tháng 4 năm 1998.
  • Vịnh Xuân Tiêu chỉ quyền, Sổ tay Võ thuật, số 52, tháng 4 năm 1998.
  • Phật gia Vịnh Xuân Quyền (Vietnam Buddha Wing Chun Kungfu) – Tác giả: Nguyễn Mạnh Nhâm – Nguyễn Duy Thức Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin
  • Robert Chu, René Ritchie, Y. Wu, Complete Wing Chun (the definitive guide to Wing Chun’s history and tranditions (tiếng Anh, tài liệu dạng e-book có trên mạng Internet).

Liên kết ngoài.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *