4.9
/
5
(
2185
bầu chọn
)
Xứ Nẫu là cụm từ thân thương và đặc biệt để nói về vùng đất Bình Định, Phú Yên. Dọc miền Tổ Quốc có nhiều vùng văn hóa khác biệt đã làm nên tên tuổi và cách nhận biết địa danh. Trong đó, vùng xứ Nẫu nổi tiếng với những bãi biển xanh trong, món ăn đậm đà, tính cách hào sảng. Và ấn tượng nhất là giọng nói của người Xứ Nẫu mang một thanh âm gần gũi, nghe nhiều sẽ ghiền. Vậy tại sao gọi là xứ Nẫu? Hãy cùng Quy Nhơn Tourist giải mã bí ẩn này các bạn nhé!
Nội dung chính
1. Khái quát nguồn gốc xứ Nẫu
Theo dòng lịch sử dân tộc Nước Ta, vào năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan có bổn phận đưa lưu dân nghèo không sản nghiệp khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả ( tỉnh Phú yên giờ đây ). Sau 33 năm tìm hiểu và khám phá vùng đất mới, hình thành làng mạc, năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa .
Một góc đường Lê Thánh Tôn, Quy Nhơn năm 1968. Ảnh : Sưu tầm
Năm 1629, chúa Nguyễn Phúc Nguyên tăng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên. Do đặc thù của vùng đất mới còn hoang hóa, dân cư thưa thớt nên những đơn vị chức năng hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc trưng. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là những đơn vị chức năng hành chính nhỏ hơn như P., Nậu, Man. Phường là những làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức triển khai quản trị một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu Nậu. Ví dụ : “ Nậu nguồn ” chỉ nhóm người khai thác rừng, “ Nậu nại ” chỉ nhóm người làm muối, “ Nậu rổi ” chỉ nhóm người bán cá, “ Nậu rớ ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ, “ Nậu cấy ” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “ Nậu vựa ” chỉ nhóm người làm mắm …
Phong cảnh biển Sông Cầu, Phú Yên. Ảnh : Du lịch Sông Cầu
Do sự tăng trưởng của xã hội Đàng Trong, năm 1726, chúa Nguyễn Phúc Chú ( 1697 – 1738 ) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định khoanh vùng phạm vi, công dụng của những đơn vị chức năng hành chính. Các đơn vị chức năng hành chính như “ Thuộc ”, “ Nậu ” bị xóa bỏ. Khái niệm thành tố chung cấp hành chính “ Nậu ” được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba. Từ “ Nậu ” không Open độc lập mà chỉ xuất hiện trong những tổ hợp danh ngữ : Ví dụ :
– Mất chồng như nậu mất trâu
Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm .
– Tiếc công anh đào ao thả cá
Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu .
– Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên .
2. Đặc điểm cơ bản nhận diện Xứ Nẫu
Từ chữ “ Nậu ” khởi đầu, phương ngữ Phú Yên – Tỉnh Bình Định tỉnh lược đại từ tên tuổi ngôi thứ ba ( cả số ít và số nhiều ) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi. Ví dụ : Ông ấy, bà ấy được thay bằng : “ ổng ”, “ bả ”. Anh ấy, chị ấy được thay bằng : “ ảnh ”, “ chỉ ”. Và thế là “ Nậu ” được thay bằng “ Nẩu ”. Nẫu đã đi vào ca dao Tỉnh Bình Định, Phú Yên khá quyến rũ, chân chất :
Ai về sông núi Phú Yên
Cho nẫu nhắn gở nỗi niềm nhớ quê
Phương ngữ Thuận Quảng ( Thuận Hóa – Quảng Nam ) với “ mô, tề, răng, rứa, chừ ”, vượt qua đèo Bình Đê ( ranh giới Tỉnh Bình Định – Tỉnh Quảng Ngãi ) được đổi thành “ đâu, kia, sao, vậy, giờ ”. Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ ( Tỉnh Bình Định – Phú Yên ) không phân biệt rạch ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt, bà con vùng biển từ Hoài Nhơn ( Tỉnh Bình Định ) đến Gành Đỏ ( Sông Cầu – Phú Yên ), những âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi. Riêng đồng bằng Tuy Hòa, khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã .
Quy Nhơn ngày này là thành phố biển sạch sẽ và đẹp mắt. Ảnh : Thanh Niên Online
Bởi vậy, “ Nẩu ” hay được phát âm là “ Nẫu ”. Đồng bằng Tuy Hòa phong phú, nhiều nhà giàu trong vùng cho con cháu đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ “ Nẩu ” theo phát âm quen miệng thành chữ “ Nẫu ”. Nói nôm na, tiếng Nẫu là tiếng địa phương của vùng Tỉnh Bình Định và Phú Yên có nghĩa là họ, hay người ta, vì là “ đại từ nhân xưng ” nó nằm ở vị trí ngôi thứ ba vừa số ít mà cũng vừa số nhiều .
Ví dụ thay vì hỏi “ Hôm nay người ta đi đâu mà nhiều vậy ? ” thì người dân Tỉnh Bình Định và Phú Yên hỏi là “ Hôm nay nẫu đi đâu mà nhiều dậy ? ” hay “ Cái nhà này là của họ ” thì dân Nẫu sẽ nói là “ Cái nhà nhà này là của nẫu ”. Chính thế cho nên mà khi hòa cùng toàn bộ tiếng nói của mọi miền quốc gia thì tiếng nẫu sẽ không lạc vào đâu được, thậm chí còn còn dùng những từ trọn vẹn khác với những từ thông dụng, ví dụ thay vì nói “ Vào tận trong đó ” thì nói là “ Dô tuốt trỏng ” hay hỏi “ vậy hả ? ” thì hỏi là „ dẫy na ? “, “ dẫy ngheng ” ( vậy nghen hay thế nhé ), “ dẫy á ” ( vậy đó ), “ chu cha wơi ” ( trời đất ơi ) v.v …
3. Thanh âm xứ Nẫu trong đời sống cộng đồng
Người Việt mình từ văn minh lúa nước mấy ngàn năm đến giờ đã nổi tiếng là “ nhà quê ”, mặc dầu có ở thành thị thì vẫn là “ dân nhà quê ” so với những nước khác. Vậy thử hỏi trong đất Nước Ta mình, xứ nào là “ nhà quê ” nhứt ? Đó chính là “ xứ Nẫu ”. Tôi đi khắp Nước Ta, ai hỏi tôi quê đâu ? Tôi thưa rằng quê tôi xứ Nẫu, tôi dân Nẫu, Nẫu nè, Nẫu ơi …
Vì sao “ quê ”, vì ngay cái chữ “ Nẫu ” nghe nó đã quê rồi. Nó khởi thủy là chữ “ nậu ”, là một từ cổ ở miền Trung Nam Bộ, theo cụ Vương Hồng Sển, nó cổ đến mức gần như là nguyên thủy, thời nay không còn ai dùng. Từ “ nậu ” để chỉ một nhóm người theo ngành nghề hoặc theo nơi ở : ví dụ : “ Nậu nguồn ” chỉ nhóm người trên rừng, “ Nậu nại ” chỉ nhóm người làm muối, “ Nậu rổi ” chỉ nhóm người bán cá, “ Nậu rớ ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ, “ Nậu cấy ” chỉ nhóm người đi cấy mướn, “ Nậu vựa ” chỉ nhóm người làm mắm … mãi sau, bằng nguyên tắc tăng âm đặc trưng của dân Việt mình : “ ông + ấy = ổng ”, “ chị + ấy = chỉ ”, thì cái “ nậu + ấy = Nẫu ” .
Cá ồ nướng, món ăn đặc trưng của xứ Nẫu. Ảnh : Sưu tầm
Xứ Nẫu khởi đầu từ Tỉnh Bình Định, Phú Yên và một phần của Khánh Hòa. Cũng như những vùng miền khác, mà gần nhất là xứ Quảng, giọng nói người xứ nẫu không lẫn vào đâu được. Người xứ Nẫu luôn nói lớn tiếng, giọng nặng và hầu hết những âm tiết đều bị biến dạng theo hướng nặng hơn, khó phát âm hơn … khó đến nỗi chỉ người xứ Nẫu mới nói được, làm như cái cấu trúc thanh quản của dân xứ Nẫu đã khác đi so với người xứ khác. Nẫu ( người ta ), rầu ( rồi ), cái đầu gấu ( gối ), trời tấu ( tối ), cái xỉ ( muỗng ), tộ ( chén ) … người xứ Nẫu nói cho người xứ Nẫu nghe, cho nên vì thế từ ngữ quê mùa cục mịch, đến mức câu ca dao mẹ hát ru con cũng nặng trình trịch, nhưng mà nặng nhất là cái tình :
Thương chi cho uổng công tình
Nẫu dzìa xứ nẫu, bỏ mình bơ vơ .
4. Tính cách con người xứ Nẫu
Hồi nhỏ, mỗi lần tôi làm điều gì không đúng, ông nội tôi thường nói : “ đửng làm dẫy, nẫu cừ ” ( đừng làm vậy, người ta cười ), nhưng cũng có khi ông nội cho tôi tự do, muốn làm gì thì làm, kể cả vấn thuốc rê của ổng ra sân ngồi hút phì phà như người lớn, vì : “ nẫu cừ thì kệ nẫu cừ, nẫu cừ lạnh bụng, hở mười cái răng ”. Dân Nẫu đúng như giọng xứ Nẫu, hiền nhưng cộc cằn, phóng khoáng nhưng ngang ngạnh, tình cảm nhưng hơi thô kệch …
Tháp Chăm là “ đặc sản nổi tiếng văn hóa truyền thống ” của xứ Nẫu. Ảnh : Tháp Nhạn – Quy Nhơn Go
Dân Nẫu đi đến đâu cũng là “dân nhà quê”, học hành đến mấy vẫn không trút được cái gốc “nẫu” của mình. Nẫu không khôn ngoan, khéo léo như người Bắc. Nẫu không dịu dàng, lịch lãm như người xứ Huế. Nẫu cũng chẳng rộng rãi, vô tư như người Nam. Nẫu là Nẫu. “Nẫu dzẫy” (nậu vậy), Dân Nẫu không quan tâm người khác nghĩ gì về mình, tốt xấu gì cũng mặc, “kệ nẫu”. Cho nên dân Nẫu đi xứ khác làm ăn bị thiệt thòi nhiều, ít bạn, nhưng nếu có bạn, nẫu sẽ sống chết với bạn….
Về thăm xứ Nẫu thân thương để khám phá nét đẹp trong văn hóa, tâm hồn con người Bình Định, Phú Yên. Một xứ Nẫu thân thiện, mến khách và rất đỗi nhiệt tình. Hãy khám phá xứ Nẫu để cảm nhận thêm giá trị tinh hoa của một vùng đất thú vị.
Theo Quy Nhơn Tourist tổng hợp
Hãy Gọi Ngay 0979 53 59 59 (Hotline) để được Tư Vấn Trực Tiếp và nhận được NHIỀU CHƯƠNG TRÌNH ƯU ĐÃI chỉ có ở Quy Nhơn Tourist.
Source: http://139.180.218.5
Category: Thuật ngữ đời thường