Chữ Hán hay Hán tự (漢字)[1] là loại văn tự ngữ tố – âm tiết xuất phát từ tiếng Trung Quốc. Chữ Hán sau đó du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, tạo thành vùng được gọi là vùng văn hóa chữ Hán hay vùng văn hóa Đông Á. Tại các quốc gia này, chữ Hán được vay mượn để tạo nên chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản địa ở từng nước. Kiểu chữ viết được ổn định như ngày nay đã có từ thời đại nhà Hán.

Tại Trung Quốc thời cổ đại, ở trong tiếng Hán không có tên gọi nào chỉ riêng chữ Hán được phần đông người nói tiếng Hán biết đến. Người nói tiếng Hán thường chỉ dùng những từ ngữ có nghĩa là chữ, chữ viết để chỉ chữ Hán. [ 2 ]

Trong các thư tịch tiếng Hán được viết trước thời nhà Tần còn lưu truyền được đến ngày nay có các từ sau để chỉ văn tự:[3]

  • 名 “danh”
  • 書 “thư”
  • 文 “văn”
  • 字 “tự”

Từ 名 “ danh ” có nghĩa gốc là tên, tên gọi. Tên gọi của sự vật đều là từ ngữ. Từ nghĩa gốc chỉ tên gọi, từ danh 名 “ danh ” có thêm nghĩa chuyển chỉ từ. Người xưa không phân biệt từ với chữ, họ đánh đồng ký hiệu họ dùng để ghi lại từ ngữ với từ ngữ nên họ đã lấy tên gọi của từ ra dùng để chỉ chữ. [ 4 ] William H. Baxter và Laurent Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 名 là / * C.me ŋ /. [ 5 ]Từ 書 “ thư ” có nghĩa gốc là viết. Chữ là thứ người ta viết ra khi viết, người xưa đã dùng từ 書 “ thư ” làm tên gọi của chữ. [ 6 ] Baxter và Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 書 là / * s-ta /. [ 7 ]Từ 文 “ văn ” có nghĩa gốc là hoa văn. Trong chữ Hán có nhiều chữ được tạo ra bằng cách vẽ mô phỏng hình dạng của sự vật mà từ được ghi bằng chữ Hán đó biểu lộ. Thí dụ : hình dạng cổ xưa nhất của chữ Hán 月 “ nguyệt ” ( được dùng để ghi từ tiếng Hán có nghĩa là mặt trăng ) là hình mặt trăng. Hoa văn thường cũng là hình mô phỏng hình dạng của sự vật, người xưa tưởng tượng những chữ Hán có hình dạng là hình vẽ mô phỏng lại hình dạng của sự vật cũng giống như là hoa văn nên họ đã gọi chữ là 文 “ văn ”. [ 8 ] [ 9 ] Baxter và Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 文 là / * mə [ n ] /. [ 10 ]

Từ 字 “tự” bắt đầu được dùng để chỉ văn tự từ thời Chiến quốc.[11] Nghĩa gốc của từ 字 “tự” là sinh, đẻ. Có nhiều chữ Hán được tạo ra bằng cách đem ghép các chữ Hán đã có sẵn lại với nhau, tạo thành chữ mới. Thí dụ: chữ 字 “tự” được tạo ra bằng cách đem ghép chữ 宀 “miên” với chữ 子 “tử”. Người xưa hình dung việc đem ghép chữ này với chữ nọ tạo thành chữ khác giống như là nam nữ giao hợp với nhau, sinh ra con cái, nên họ đã gọi chữ là 字 “tự”.[9] Baxter và Sagart phục nguyên âm tiếng Hán thượng cổ của từ 字 là /*mə-dzə(ʔ)-s/.[12] Từ chữ trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Hán thượng cổ 字.[13]

Sang đến thời nhà Tần, tiếng Hán có thêm một từ khác để chỉ chữ viết là từ 文字 “ văn tự ”. Từ này được tạo ra bằng cách ghép hai từ đã có từ trước đó là 文 “ văn ” và 字 “ tự ” lại với nhau. [ 14 ]Từ thời nhà Tần cho đến trước thời cận đại, trong tiếng Hán, văn tự thường được gọi là 字 “ tự ” hoặc 文 “ văn ” hoặc 文字 “ văn tự ”. [ 2 ]Tên gọi thông dụng lúc bấy giờ trong tiếng Hán của chữ Hán là 漢字 “ Hán tự ”. Tên gọi này sinh ra xuất phát từ nhu yếu của tăng lữ Phật giáo cần có tên gọi chỉ riêng chữ Hán để phân biệt chữ Hán với chữ Phạm phát sinh khi dịch tiếng Phạm sang tiếng Hán. Thư tịch cổ nhất đã biết trong đó có gọi chữ Hán là Hán tự 漢字 “ Hán tự ” là sách 梵語千字文 “ Phạm ngữ thiên tự văn ” do tỷ khâu đời Đường Nghĩa Tịnh viết năm Hàm Hanh ( 咸亨 ) thứ hai ( Tây lịch năm 671 ). Sách 梵語千字文 “ Phạm ngữ thiên tự văn ” còn có tên gọi khác là 唐字千鬘聖語 “ Đường tự thiên man thánh ngữ ”, 梵唐千字文 “ Phạm Đường thiên tự văn ”. [ 15 ]

Theo truyền thuyết thì Hoàng Đế là người sáng tạo ra văn tự Trung Hoa từ 4-5 ngàn năm trước nhưng ngày nay không còn ai tin rằng Hoàng Đế là nhân vật có thật nữa. Cả thuyết Thương Hiệt cho chữ mà các học giả thời Chiến Quốc đưa ra cũng không thuyết phục vì không ai biết Thương Hiệt ở đời nào. Gần đây người ta đào được ở An Dương (Hà Nam) nhiều mu rùa, xương loài vật, và đồ đồng trên đó có khắc chữ, và các nhà khảo cổ phỏng đoán rằng chữ viết ở Trung Hoa ra đời muộn nhất là vào thời kỳ nhà Thương, khoảng 1800 năm trước Công nguyên.[cần dẫn nguồn]

Phân loại cấu trúc chữ Hán theo Lục Thư.

Chữ Hán được hình thành theo những cách chính :

  • Chữ tượng hình (象形文字): “Tượng hình” có nghĩa là căn cứ trên hình tượng của sự vật mà hình thành chữ viết. Các chữ này rất dễ nhận biết và đơn giản. VD: 日 nhật (mặt trời), 月 nguyệt (mặt trăng), 木 mộc (cái cây), 龜 quy (con rùa),
  • Chữ chỉ sự (指事文字) hay chữ Biểu Ý (表意文字): Cùng với sự phát triển của con người, chữ Hán đã được phát triển lên một bước cao hơn để đáp ứng đủ nhu cầu diễn tả những sự việc đó là chữ chỉ sự. Ví dụ, để tạo nên chữ Bản (本), diễn đạt nghĩa “gốc rễ của cây” thì người ta dùng chữ Mộc (木) và thêm gạch ngang ở dưới diễn tả ý nghĩa “ở đây là gốc rễ” và chữ Bản (本) được hình thành. Chữ Thượng (上), chữ Hạ (下) và chữ Thiên (天) cũng là những chữ chỉ sự được hình thành theo cách tương tự.
  • Chữ hội ý (會意文字): Để tăng thêm chữ Hán, cho đến nay người ta có nhiều phương pháp tạo nhiều chữ mới có ý nghĩa mới. Ví dụ, chữ Lâm (林, rừng nơi có nhiều cây) có hai chữ Mộc (木) xếp hàng đứng cạnh nhau được làm bằng cách ghép hai chữ Mộc với nhau (Rừng thì có nhiều cây). Chữ Sâm (森, rừng rậm nơi có rất nhiều cây) được tạo thành bằng cách ghép ba chữ Mộc. Còn chữ Minh (鳴, kêu, hót) được hình thành bằng cách ghép chữ Điểu (鳥, con chim) bên cạnh chữ Khẩu (口, mồm); chữ Thủ (取, cầm, nắm) được hình thành bằng cách ghép chữ Nhĩ (耳, tai) của động vật với tay (chữ Thủ 手, chữ Hựu 又).
  • Chữ hình thanh (形聲文字): Cùng với những chữ tượng hình, chỉ sự và hội ý, có nhiều phương pháp tạo nên chữ Hán, nhưng có thể nói là đa số các chữ Hán được hình thành bằng phương pháp hình thanh, gọi là chữ hình thanh (形聲文字). Chữ hình thanh chiếm tới 80% toàn bộ chữ Hán. Chữ hình thanh là những chữ được cấu tạo bởi hai thành phần: nghĩa phù có tác dụng gợi ý, và thanh phù có tác dụng gợi âm. Ví dụ, chữ Vị 味 (nghĩa: mùi vị) có nghĩa phù là bộ thủ khẩu 口 chỉ việc liên quan đến ăn hoặc nói, còn thanh phù là chữ Vị 未 (nghĩa: chưa, ví dụ: vị thành niên). Lối tạo chữ hình thanh của chữ Vị 味 cho ta biết chữ này mang ý nghĩa liên quan tới việc ăn/nói và có âm đọc tương tự như Vị 未. Chữ Vị 味 còn có một âm xưa là Mùi (nghĩa của nó không gì khác hơn, cũng là mùi). Thanh phù Vị 未 ngày trước cũng mang âm mùi và âm này vẫn còn hiện diện trong cách gọi địa chi thứ tám, tương ứng với con dê, trong ngôn ngữ hiện đại của tiếng Việt. Như vậy, gắn với âm xưa, bằng lối tạo chữ hình thanh, chữ Mùi 味 cũng được diễn giải là nghĩa phù Khẩu 口 có tác dụng gợi nghĩa, nói lên sự ăn uống và thanh phù Mùi 未 thể hiện cách đọc chữ này.
  • Chữ chuyển chú (轉注文字): Các chữ Hán được hình thành bằng bốn phương pháp kể trên, nhưng còn có những chữ có thêm những ý nghĩa khác biệt, và được sử dụng trong những nghĩa hoàn toàn khác biệt đó. Ví dụ, chữ Dược (藥), có nguồn gốc là từ chữ Nhạc (樂), âm nhạc làm cho lòng người cảm thấy sung sướng phấn khởi nên chữ Nhạc (樂) cũng có âm là Lạc nghĩa là vui vẻ. Chữ Dược (藥) được tạo thành bằng cách ghép thêm bộ Thảo (có nghĩa là cây cỏ) vào chữ Lạc (樂).
  • Chữ giả tá (假借文字): Là những chữ được hình thành theo phương pháp bằng cách mượn chữ có cùng cách phát âm.

Bốn cách tạo chữ ( Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh ) và hai cách sử dụng chữ ( Chuyển chú, Giả tá ) được gọi chung là Lục Thư ( 六書 ) .
Chữ Hán có đến hàng ngàn chữ nhưng được phân loại thành 214 bộ chữ, mỗi bộ chữ được đại diện thay mặt bằng một thành phần cấu trúc chung gọi là bộ thủ, dựa theo số nét .Tuy nhiên số bộ thủ không phải không bao giờ thay đổi mà có sự biến hóa theo thời hạn .

Số bộ thủ nói trên là dạng chữ phồn thể, dựa theo Khang Hi tự điển (1716) và các từ điển thông dụng sau này như Trung Hoa đại tự điển (1915), Từ hải (1936).[16]

Trước đó, trong Thuyết văn giải tự của Hứa Thận (thời Đông Hán) có 9350 chữ phân làm 540 bộ thủ. Tự lâm của Lã Thầm (đời Tấn) và Loại biên của Vương Chu và Tư Mã Quang (đời Tống) cũng có 540 bộ thủ. Ngọc thiên của Cố Dã Vương đời Lương có 542 bộ thủ. Với việc giản thể hóa chữ Hán, vì phải thêm các bộ thủ giản thể nên số bộ thủ tăng lên thành 227 bộ. Tuy nhiên, một số cách ghép bộ thủ đã làm giảm số bộ thủ, chẳng hạn Tân Hoa tự điển có 189 bộ thủ, Hiện đại Hán ngữ từ điển có 188 bộ thủ, Hán ngữ đại từ điển có 200 bộ thủ. Riêng cuốn Từ nguyên xuất bản năm 1979 có tới 243 bộ thủ.

Chữ Hán và việc phân biệt từ đồng âm khác nghĩa.

Chữ Hán khắc phục sự hiểu sai nghĩa do đồng âm khác nghĩa: ví dụ như từ Hán-Việt “vũ” có các chữ Hán là 宇(trong “vũ trụ”), 羽(trong “lông vũ”), 雨(trong “vũ kế” – nghĩa là “mưa”), 武 (trong “vũ khí”), 舞(trong “vũ công” – nghĩa là “múa”). Nếu chỉ viết “vũ” theo chữ Quốc ngữ thì người đọc phải tự tìm hiểu nghĩa, còn nếu viết bằng chữ Hán thì nghĩa của “vũ” sẽ được thể hiện rõ ràng. Ứng dụng này được sử dụng nhiều nhất ở Hàn Quốc, khi bố mẹ đi khai sinh cho con ngoài việc viết tên con bằng hangul để biểu thị cách đọc thì họ cũng phải viết cả hanja để biểu thị ý nghĩa cho tên của con mình. Ví dụ: Kim Ki Bum (cựu thành viên Super Junior) và Key (thành viên SHINee) đều có tên thật là “Gim Gi-beom“, viết bằng hangul là 김기범, nhưng tên chữ Hán thì khác nhau. Kim Ki Bum có tên chữ Hán là 金起範 (Kim Khởi Phạm), còn Key có tên chữ Hán là 金基范 (Kim Cơ Phạm). Trong tiếng Việt, việc chỉ sử dụng chữ Quốc ngữ (chữ Latinh) chỉ có thể biểu âm mà không dùng kèm chữ Hán và chữ Nôm có tính biểu nghĩa tốt, đang khiến tình trạng đồng âm khác nghĩa trong tiếng Việt trở nên nghiêm trọng hơn. Tiêu biểu như ngay chính người Việt không hiểu đúng chữ “Thị” thường có trong tên phụ nữ Việt Nam mang nghĩa là gì,[17] nhầm họ (họ Tôn và họ Tôn Thất, họ Âu và họ Âu Dương),[18] dịch “Vĩnh Long” thành “Vĩnh Dragon”[19][20],… đã gián tiếp chứng minh rằng việc chỉ sử dụng chữ Quốc ngữ thì không đủ khả năng để biểu nghĩa đầy đủ cho tiếng Việt như chữ Hán và chữ Nôm.[21]

” … Nhược điểm của chữ Quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một mạng lưới hệ thống phiên âm âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có đặc thù thuần tuý ghi âm, và trọn vẹn bất lực trước trách nhiệm biểu lộ nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và điểm yếu kém ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong những từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt … Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai hoạ không còn hoán cải được nữa, nhưng ta hoàn toàn có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn học bắt buộc ở trường đại trà phổ thông … “Tiếng Việt – Văn Việt – Người Việt. Nhà xuất bản Trẻ. 2001, bài “Mấy nhận xét về chữ Quốc ngữ”, Giáo sư. Nhà xuất bản Trẻ. 2001, bài, Giáo sư Cao Xuân Hạo

Việc sử dụng chữ Hán trong vùng văn hoá chữ Hán.

Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan.

Chữ Hán bắt nguồn từ Trung Quốc từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát đồ vật xung quanh và vẽ thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa. Chữ Hán đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Cho tới hiện nay, chữ Hán cổ nhất được cho là loại chữ Giáp Cốt (Giáp cốt văn 甲骨文), chữ viết xuất hiện vào đời nhà Ân (殷) vào khoảng 1600-1020 trước Công Nguyên. Chữ Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên các mảnh xương thú vật và có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được.

Chữ Giáp Cốt liên tục được tăng trưởng qua những thời :
Ngoài ra còn có chữ Hành thư ( 行書 ) và chữ Thảo thư ( 草書 ). Chữ Khải thư là loại chữ được dùng bút lông chấm mực tàu viết trên giấy và rất gần với hình dáng chữ Hán thời nay vẫn còn được dùng ở Nhật, Đài Loan hay Hương Cảng. Chữ Thảo thư là loại chữ được viết bằng bút lông có lược bớt hoặc ghép 1 số ít nét lại. Sự tăng trưởng chữ Hán trải qua những thời kỳ hoàn toàn có thể được minh họa bằng 1 số ít chữ sau :Giáp cốt văn → Kim văn → Triện thư → Lệ thư → Thảo thư → Khải thư → Hành thưNgày nay tại Trung Quốc đại lục, bộ chữ giản thể ( 简体字 ) đã thay thế sửa chữa cho bộ chữ phồn thể ( 繁體字 ). Công cuộc cải cách chữ [ 22 ] viết được triển khai sau khi đảng Cộng sản đánh bại phe quốc dân đảng ra khỏi đại lục ( 1949 ). Tháng 10 năm 1954 tại đại lục xây dựng ủy ban cải cách chữ viết ( 中国文字改革委员会 ), cuộc cải cách nhằm mục đích đơn giản hóa chữ Hán để quần chúng nhân dân thuận tiện học biết chữ, xóa mù chữ, thống nhất nhân tự trên những khu vực vốn dĩ có nhiều độc lạ do điều kiện kèm theo địa lí và lịch sử dân tộc, đồng thời thôi thúc việc dạy và học tiếng Hán so với người quốc tế. Các khu vực ngoài đại lục, đảng Cộng sản không trấn áp như Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao, và hội đồng người Hoa ở hải ngoại hay những khu vực có sử dụng tiếng Hán như Nước Singapore liên tục sử dụng chữ phồn thể, tuy nhiên cũng có những cải biến nhất định .
” mẹ tôi thường ăn chay ở chùa mỗi chủ nhật “, viết bằng sự phối hợp của chữ Hán ( xanh ) và chữ Nôm ( cam )Có quan điểm cho rằng chữ Hán đã hiện hữu ở Nước Ta từ trước Công nguyên, dựa trên suy diễn về dấu khắc được coi là chữ trên một con dao găm [ 23 ]. Tuy nhiên đó là lúc chữ Hán chưa hình thành và chưa có tư liệu xác lập vào thời kỳ trước Công nguyên dân cư Việt cổ đã sử dụng chữ .Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X, Nước Ta chịu sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, chữ Hán và tiếng Hán được giới quan lại quản lý áp đặt sử dụng. Theo Đào Duy Anh thì nước Việt mở màn có Hán học khi viên Thái thú Sĩ Nhiếp ( 137 – 226 ) đã dạy dân Việt thi thư. Trong khoảng chừng thời hạn hơn một ngàn năm, hầu hết những bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán .

Nước Nam Việt được Triệu Đà thành lập vào thế kỷ thứ III TCN, khi nhà Tần đang thống nhất chữ viết (vào thời chiến quốc, mỗi nước phát triển chữ viết khác nhau). Hơn một thế kỷ sau, khi Lưu Bang lật đổ nhà Tần lập nhà Hán, nhà Hán mới thôn tính được Nam Việt (khoảng năm 111 TCN). Cổ vật trong lăng mộ của Hán Văn Đế cho thấy chữ viết của Nam Việt khá hoàn chỉnh[cần dẫn nguồn]. Sau này, nhà sử học Lê Mạnh Thát phát hiện rằng ngay cả Hán thư cũng dùng phương ngôn của người Việt.

Trong suốt thời hạn Bắc thuộc đó, với chủ trương Hán hóa của nhà Hán, tiếng Hán đã được giảng dạy ở Nước Ta và người Việt đã gật đầu ngôn từ mới đó song song với tiếng Việt, lời nói truyền miệng. Tuy người Nước Ta tiếp thu tiếng Hán và chữ Hán nhưng cũng đã Việt hóa nhiều từ của tiếng Hán thành từ Hán-Việt. Từ đó đã có rất nhiều từ Hán-Việt đi vào trong từ vựng của tiếng Việt. Sự tăng trưởng của tiếng Hán ở Nước Ta trong thời kỳ Bắc thuộc song song với sự tăng trưởng của tiếng Hán ở chính Trung Quốc thời đó. Tuy nhiên, năm 938, sau thắng lợi Bạch Đằng của Ngô Quyền, người Việt đã độc lập và không còn chịu ràng buộc vào phương Bắc nữa, nhưng ngôn từ vẫn còn đậm ảnh hưởng tác động của tiếng Hán. Sang thời kỳ tự chủ chữ Hán giữ vị thế là văn tự chính thức nhưng cách đọc đã tăng trưởng theo hướng riêng, khác với sự tăng trưởng tiếng Hán ở Trung Quốc .Trong quy trình đó chữ Hán vẫn được người Việt dùng và tăng trưởng thêm nhưng cách phát âm chữ Hán lại bị chi phối bởi cách phát âm của người Việt, tạo ra và củng cố dần âm Hán-Việt. Do nhu yếu tăng trưởng, người Việt đã sử dụng chữ Hán để tạo ra chữ viết riêng, tức chữ Nôm. Trong khi đó cổ văn Hán vẫn được coi là mẫu mực để noi theo. [ 24 ]Mặc dù lúc bấy giờ rất ít được sử dụng ở Nước Ta, nhưng chữ Hán cùng với chữ Nôm vẫn là dạng kí tự quan trọng với tiếng Việt bởi tính năng biểu lộ nghĩa cho từ ngữ ( khi mà chữ Quốc Ngữ chỉ có công dụng bộc lộ âm ) do yếu tố đồng âm khác nghĩa, nghĩa của từ bị rơi lệch ( đặc biệt quan trọng là hiểu nhầm ý nghĩa của tên người hoặc tên địa điểm ). [ 21 ] Các di chỉ lịch sử vẻ vang thời xưa bằng chữ Hán và chữ Nôm vẫn được bảo tồn. Người Việt đôi lúc dùng chữ Hán-Nôm trong một số ít dịp như viết thư pháp, xin chữ ngày tết hay dán chữ 囍 – ” song hỉ ” ở nhà và tiệc khi có lễ cưới .

Hiến pháp 2013 tại Chương I Điều 5 Mục 3 quy định: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”, do vậy không có luật lệ hay quyền hành nào cấm người Việt hiện nay viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm như người Việt xưa.

Triều Tiên, Nước Hàn.

Bài cụ thể : Hanja

Hán ngữ được du nhập vào bán đảo Triều Tiên khá lâu, khoảng thời kỳ đồ sắt. Đến thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên, xuất hiện các văn bản viết tay của người Triều Tiên. Các bản viết tay này được sử dụng chữ Hán. Tiếng Hán là thứ ngôn ngữ khó, dùng chữ Hán để viết tiếng Triều Tiên trở nên phức tạp, cho nên các học giả người Triều Tiên đã tìm cách cải biến chữ Hán để phù hợp với âm đọc của tiếng Triều Tiên. Vào khoảng thế kỷ thứ XV, ở Triều Tiên xuất hiện chữ ký âm, được gọi là Hangul (한글) hay Chosŏn’gŭl (조선글), chữ này trải qua nhiều thế kỷ phát triển thăng trầm, cuối cùng chính thức được dùng thay thế cho chữ Hán cho tới ngày nay. Chosŏn’gŭl lúc ban đầu gồm 28 ký tự, sau đó còn 24 ký tự giống như bảng chữ cái La Tinh, và được dùng để ký âm tiếng Triều Tiên. Tuy Hangul đã xuất hiện nhưng chữ Hán (Hanja) vẫn còn được giảng dạy trong trường học. Năm 1972, Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã quy định, phải dạy 1800 chữ Hán cơ bản cho học sinh. Còn ở Triều Tiên, người ta đã bỏ hẳn chữ Hán.[cần dẫn nguồn]

Bài chi tiết cụ thể : Kanji

Chữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường Triều Tiên. Chữ Hán ở Nhật được gọi là Kanji (漢字 Hán tự) và được du nhập vào Nhật theo con đường giao lưu buôn bán giữa Nhật và Triều Tiên vào khoảng thế kỷ thứ IV, V. Tiếng Nhật cổ đại vốn không có chữ viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật, người Nhật dùng chữ Hán để viết tiếng nói của họ. Dạng chữ đầu tiên người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viết tiếng Nhật là chữ Man-yogana (萬葉假名 Vạn Diệp Giả Danh). Hệ thống chữ viết này dựa trên chữ Hán và khá phức tạp. Man-yogana được đơn giản hóa thành Hiragana ひらがな (平假名 Bình Giả Danh) và Katakana カタカナ (片假名 Phiến Giả Danh). Cả hai loại chữ này trải qua nhiều lần chỉnh lý và hoàn thiện mới trở thành chữ viết ngày nay ở Nhật. Tiếng Nhật hiện đại được viết bằng ba loại ký tự:

  1. Chữ Hán (hay Kanji 漢字)
  2. Chữ mềm (hay Hiragana ひらがな)
  3. Chữ cứng (hay Katakana カタカナ)

Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âm Hán cổ, được gọi là On-yomi (音読 (音讀) (Âm Độc), ?) và cách đọc theo âm tiếng Nhật được gọi là Kun-yomi (訓読 (訓讀) (Huấn Độc), ?). Trong quá trình phát triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn mượn chữ Hán để sáng tạo ra một số chữ (khoảng vài trăm chữ) và mỗi chữ này chỉ có cách đọc theo âm tiếng Nhật; các chữ này được gọi là Kokuji (国字 (國字) (Quốc Tự), ?), tiếng Nhật gọi là Quốc Tự Quốc Huấn (國字國訓), nghĩa là “chữ quốc ngữ âm quốc ngữ”. Những chữ quốc ngữ này của người Nhật có cách hình thành khá giống chữ Nôm của Việt Nam (xin xem phần sau về chữ Nôm). Tháng 11 năm 1946, Bộ Giáo dục Nhật đề nghị đưa vào giảng dạy 1850 chữ Hán cơ bản trong trường học, và được Quốc hội Nhật thông qua năm 1947.

Đến năm 1981 thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm khoảng 1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác dùng để viết tên người. Đến năm 2000, các chữ Hán dùng để viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tăng lên trên 400 chữ. Các chữ Hán này được lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng (Jyoyo Kanji Hyo, 常用漢字表 Thường Dụng Hán Tự Biểu) và Bảng chữ Hán dùng viết tên người (Jinmeiyo Kanji Hyo, 人名用漢字表 Nhân Danh Dụng Hán Tự Biểu).

Nghệ thuật thư pháp.

Thư pháp là thẩm mỹ và nghệ thuật viết chữ. Nghệ thuật Thư pháp Á Đông là thẩm mỹ và nghệ thuật viết chữ Hán. Chữ Hán là loại chữ tượng hình và viết chữ Hán phải dùng bút lông để làm tăng thêm sức biểu lộ của nhà thư pháp. Chữ Hán trong lịch sử vẻ vang đã một mặt làm trách nhiệm là phương tiện đi lại để ghi chép, trao đổi tưởng truyền đạt văn hóa truyền thống … của thế hệ này đến thế hệ khác, mặt khác nó còn tự tạo cho mình một môn nghệ thuật và thẩm mỹ tạo hình độc lạ, phát minh sáng tạo. [ 25 ]

Liên kết ngoài.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *