Trong ngữ pháp, tính từ, riêng trong tiếng Việt cũng gọi là phụ danh từ[1] là từ mà vai trò cú pháp chính của nó dùng để xác định một danh từ hoặc đại từ, đưa thêm thông tin về referent của danh từ hoặc đại từ (referent là đối tượng hoặc ý tưởng mà từ hay đoạn văn hướng đến). Đồng thời các tính từ tạo thành một trong tám bộ phận lời nói trong tiếng Anh truyền thống, mặc dù các nhà ngôn ngữ học ngày nay tách biệt các tính từ với các từ như từ hạn định (tiếng Anh: determiner – một từ, ví dụ như từ chỉ số đếm, mạo từ, tính từ sở hữu,… xác định/giới hạn nghĩa của một đoạn danh từ, ví dụ từ của trong “con mèo của tôi”). Từ hạn định cũng từng được coi là tính từ.

Không phải toàn bộ những ngôn từ có tính từ nhưng phần nhiều ngôn từ đều có, gồm có tiếng Anh. Các tính từ tiếng Anh gồm có big ( to ), old ( cũ ), và tired ( mệt ), … Những ngôn từ không có tính từ, một cách nổi bật, sử dụng những từ của những bộ phận khác trong câu, thường là động từ để ship hàng công dụng cú pháp ; ví dụ một ngôn từ hoàn toàn có thể có một động từ có nghĩa là ” to be big “, và sẽ sử dụng cấu trúc tựa như ” big-being house ” để bộc lộ ” big house ” trong tiếng Anh. Ngay cả trong những ngôn từ có tính từ thì tính từ của ngôn từ này hoàn toàn có thể không là tính từ của một ngôn từ khác ; ví dụ trong khi tiếng Anh sử dụng ” to be hungry ” ( hungry là một tính từ ) thì tiếng Pháp sử dụng ” avoir faim ” ( nghĩa theo từng chữ = ” to have hunger “, hunger là một danh từ ), tiếng Hebrew sử dụng tính từ ” זקוק ” ( zaqūq, đại loại nghĩa là ” in need of ” ) thì tiếng Anh sử dụng động từ ” to need ” .Trong hầu hết những ngôn từ có tính từ, chúng tạo thành một lớp từ mở : nghĩa là, những tính từ mới được tạo thành trải qua quy trình cấu trúc từ tương đối phổ cập .

Từ hạn định.

Các nhà ngôn ngữ học ngày nay tách biệt các từ hạn định và tính từ, coi chúng là hai bộ phận riêng biệt của câu (hay các thể loại từ vựng), nhưng theo truyền thống, các từ hạn định đã được xem là các tính từ trong một số cách dùng. (Trong các từ điển tiếng Anh, một cách điển hình, các từ hạn định vẫn chưa được đối xử như chính địa vị là một phần trong câu, các từ hạn định thường bị liệt vào vừa là tính từ vừa là đại từ). Các từ hạn định là những từ biểu thị sự viện dẫn của một danh từ trong ngữ cảnh, nói chung chỉ sự xác định (như trong các từ tiếng Anh athe), số lượng (như trong các từ tiếng Anh one (một) và some (một vài) và many (nhiều)), hay tính chất khác tương tự như thế.

Các loại tính từ.

Nhìn chung tùy vào cách sử dụng thông dụng hoàn toàn có thể chia tính từ thành bốn loại sau :

Một tính từ đóng vai trò như thành phần chính của một tính ngữ. Trong trường hợp đơn giản nhất, một tính ngữ chỉ bao gồm một tính từ; các tính ngữ phức tạp hơn có thể gồm một hoặc nhiều trạng từ xác định tính từ (“very strong”), hay một hoặc nhiều bổ ngữ (như “worth several dollars“, “full of toys“, hoặc “eager to please“). Trong tiếng Anh, nếu tính ngữ thuộc tính bao gồm các bổ ngữ thì thường theo sau chủ từ của chúng (“an evildoer devoid of redeeming qualities“).

Các biến tố danh từ khác.

Trong nhiều ngôn ngữ, bao gồm cả tiếng Anh, danh từ có thể xác định danh từ. Không như tính từ, danh từ đóng vai trò như là biến tố (được gọi là danh từ thuộc tính hay định danh ngữ) không là vị ngữ; a beautiful park thì đẹp (beautiful), nhưng a car park không phải là “car”(xe hơi). Trong tiếng Anh, biến tố thường chỉ nguồn gốc (“Virginia reel”), chức năng (“work clothes”), hoặc ngữ nghĩa patient (“man eater”). Tuy nhiên, về đại thể nó có thể chỉ gần như bất kì quan hệ ngữ nghĩa nào. Việc tính từ được phái sinh từ danh từ cũng phổ biến, như trong tiếng Anh boyish, birdlike, behavioral, famous, manly, angelic, vân vân.

Nhiều ngôn ngữ có các dạng động từ đặc biệt gọi là danh động từ có thể đóng vai trò như một biến danh tố. Trong một số ngôn ngữ, bao gồm tiếng Anh, xu hướng mạnh là các danh động từ có liên quan đến tính từ. Các ví dụ tiếng Anh cho điều này gồm có relieved (quá khứ phân từ của động từ relieve, được sử dụng như một tính từ trong câu (ví dụ “I am so relieved to see you”), spoken (như trong “the spoken word”), và going (hiện tại phân từ của động từ go, được sử dụng như một tính từ trong câu như “Ten dollars per hour is the going rate”).

Các cấu trúc khác xác định danh từ nói chung gồm cụm giới từ (ví dụ trong tiếng Anh “a rebel without a cause“), mệnh đề quan hệ (ví dụ trong tiếng Anh “the man who wasn’t there“), mệnh đề tính từ khác (ví dụ trong tiếng Anh “the bookstore where he worked“), và ngữ nguyên thể (ví dụ trong tiếng Anh “cake to die for“).

Trong quan hệ, nhiều danh từ lấy các bổ ngữ như các mệnh đề nội dung (ví dụ trong tiếng Anh “the idea that I would do that“); tuy nhiên những từ này không được coi là các biến tố thông dụng.

Trật tự tính từ.

Trong nhiều ngôn từ, những tính từ thuộc tính thường Open trong một trật tự xác lập. Nói chung, trật tự tính từ trong tiếng Anh là : [ 2 ]

  1. mạo từ hoặc các đại từ được sử dụng như tính từ
  2. từ tăng cường
  3. số lượng
  4. kích thước
  5. tuổi
  6. màu sắc
  7. tính động từ
  8. tính từ riêng
  9. danh từ được sử dụng như tính từ
  10. danh từ chính

Như vậy, trong tiếng Anh, những tính từ thuộc về kích cỡ đứng trước những tính từ thuộc về tuổi ( ” little old “, chứ không phải là ” old little ” ) và đến lượt mình nói chung đứng trước những tính từ thuộc về sắc tố ( ” old white “, chứ không phải là ” white old ” ). Vì thế, tất cả chúng ta sẽ nói ” A nice ( opinion ) little ( size ) old ( age ) white ( color ) brick ( material ) house “. Tuy nhiên, 1 số ít người địa phương sẽ nói, ví dụ điển hình như ” a big, ugly desk ” ( size, opinion ) thay cho ” an ugly, big desk ” ( opinion, size ) .

Trật tự này có thể nghiêm ngặt hơn trong một số ngôn ngữ; ví dụ tiếng Tây Ban Nha chỉ có duy nhất một trật tự từ mặc định là (unmarked), đối với các ngôn ngữ khác thì các trật tự từ đều được phép.

Tính từ trong phép so sánh.

Trong nhiều ngôn ngữ, các tính từ có thể được so sánh. Trong tiếng Anh, ví dụ, chúng ta có thể nói một chiếc xe hơi là to (big), to hơn (bigger) xe khác, hay to nhất biggest trong tất cả các xe. Tuy nhiên không phải tất cả các tính từ cho vay mượn mình để so sánh; ví dụ, tính từ tiếng Anh extinct (đã tắt, lạc hậu, đã chết, đã diệt vong) không được xem là có thể so sánh được, việc miêu tả cái này “more extinct” hơn cái kia là vô nghĩa. Tuy nhiên ngay cả các tính từ không thể so sánh được nhất vẫn thỉnh thoảng được so sánh; ví dụ một người có thể nói một ngôn ngữ chưa được biết tới là “more extinct” hơn một ngôn ngữ đã được sử dụng/tài liệu hóa rộng rãi với việc phục vụ học thuật nhưng không có người nói. Đây không phải là phép so sánh về cấp độ cường độ của tính từ, mà là cấp độ mà đối tượng phù hợp với định nghĩa của tính từ.

Các tính từ có thể so sánh được còn được gọi là các tính từ “có thể phân cấp được” (gradable), bởi vì chúng có xu hướng cho phép các trạng từ cấp độ như very (rất), rather (khá), v.v.

Trong số các ngôn ngữ cho phép các tính từ có thể được so sánh theo cách này, các hướng tiếp cận khác được sử dụng. Thật vậy, ngay cả trong tiếng Anh, hai hướng tiếp cận khác được dùng là: hậu tố -er-est, và các từ more,most. (Trong tiếng Anh, xu thế chung là đối với những tính từ ngắn hơn và các tính từ gốc tiếng Anglo-Saxon sẽ dùng -er-est, còn đối với các tính từ dài và tính từ gốc tiếng Pháp, tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, và các ngôn ngữ khác sẽ dùng moremost.) Nhờ cả hai cách tiếp cận này nên tính từ tiếng Anh có các dạng: nguyên thể (big), so sánh hơn (bigger), và so sánh hơn nhất (biggest). Tuy nhiên nhiều ngôn ngữ khác không phân biệt rõ các dạng so sánh hơn và so sánh nhất.

Sự hạn định.

Các tính từ thuộc tính, và các biến danh tố khác, có thể được sử dụng hạn định (giúp xác định referent của danh từ, từ đây “giới hạn” reference của nó), hoặc không hạn định (giúp miêu tả một danh từ đã được xác định). Trong một số ngôn ngữ, như tiếng Tây Ban Nha, sự hạn định được đánh dấu thống nhất; ví dụ, la tarea difícil tiếng Tây Ban Nha nghĩa là “nhiệm vụ khó khăn” trong nghĩa “the task that is difficult” (hạn định), trong khi đó la difícil tarea có nghĩa là “the difficult task” trong nghĩa “the task, which is difficult” (không hạn định). Trong tiếng Anh, sự hạn định không được đánh dấu lên tính từ mà lên mệnh đề quan hệ (sự khác nhau giữa “the man who recognized me was there” và “the man, who recognized me, was there” là một trong các hạn định).

  • Dixon, R. M. W. (1977). Where have all the adjectives gone? Studies in Language, 1, 19–80.
  • Dixon, R. M. W. (1993). The Encyclopedia of Language and Linguistics (ấn bản 1). Pergamon Press Inc. tr. 29–35. ISBN 0080359434.
  • Dixon, R. M. W. (1999). Adjectives. In K. Brown & T. Miller (Eds.), Concise encyclopedia of grammatical categories (pp. 1–8). Amsterdam: Elsevier. ISBN 0-08-043164-X.
  • Warren, Beatrice. (1984). Classifying adjectives. Gothenburg studies in English (No. 56). Göteborg: Acta Universitatis Gothoburgensis. ISBN 91-7346-133-4.
  • Wierzbicka, Anna. (1986). What’s in a noun? (or: How do nouns differ in meaning from adjectives?). Studies in Language, 10, 353–389.

Liên kết ngoài.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *