Ái (tiếng Trung: 愛, là một từ dịch sai của tiếng Phạn: tṛṣṇā, tiếng Nam Phạn: taṇhā), nghĩa là “ham muốn”, “thèm khát”, là một khái niệm quan trọng của đạo Phật. Ái chỉ mọi ham muốn xuất phát từ sự tiếp xúc của giác quan với đối tượng của giác quan đó. Cần hiểu là con người gồm có năm giác quan thông thường và ý (khả năng suy nghĩ, ý nghĩ, xem Lục căn) là sáu. Vì vậy Ái bao gồm hai lĩnh vực: vật chất và tinh thần. Sự tham muốn đó biểu lộ bằng tâm vướng bận của Khổ (tiếng Phạn: duḥkha), là nguyên do tại sao loài hữu tình cứ mãi trôi nổi trong Luân hồi. Muốn thoát khỏi Ái, người ta cần phòng hộ các giác quan (Nhiếp căn), không để cho thèm khát và ham muốn nổi lên, tu hành giúp đạt được khả năng miễn nhiễm với ái, tâm tính được thanh tịnh, nhờ đó có thể chấm dứt cái khổ.

Có nhiều cách phân loại Ái :

  1. Dục ái (tiếng Trung: 欲愛, tiếng Phạn:

    kāmatṛṣṇā

    ), ham mê xác thịt.

  2. Hữu ái (tiếng Trung: 有愛, tiếng Phạn:

    bhavatṛṣṇā

    ), ham muốn tồn tại vĩnh cữu, là thường kiến, chấp thân này sẽ tồn tại vĩnh cữu, một linh hồn hay thực thể sống mãi mãi không bao giờ chết.

  3. Phi hữu ái (tiếng Trung: 非有愛, tiếng Phạn:

    vibhavatṛṣṇā

    ), hoặc Đoạn ái, là đoạn kiến, chấp rằng chỉ có đời này không có đời sau, chấp không có gì còn lại sau khi chết, chết là hết.

Ba loại ái này là nội dung của chân lý thứ hai ( tập đế ) trong Tứ diệu đế. Dựa trên giác quan, người ta phân biệt ái thuộc sắc, thanh âm, mùi thơm, vị ngon ngọt, tiếp xúc và tư tưởng. Dựa trên Ba quốc tế có thứ Ái thuộc dục giới, Ái thuộc sắc giới ( tiếng Trung : 色愛, tiếng Phạn : rūpatṛṣṇā ) và Vô sắc giới ( hay vô sắc ái, tiếng Trung : 無色愛, tiếng Phạn : arūpatṛṣṇā ). Trong giáo lý Duyên khởi với mười hai nhân duyên hệ thuộc ( tiếng Phạn : pratītya-samutpāda ), Ái do Thụ ( tiếng Trung : 受, tiếng Phạn : vedanā ) sinh ra, và bản thân Ái lại sinh ra Thủ ( tiếng Trung : 取, tiếng Phạn : upādāna ) .Trong quá trình Phật giáo nguyên thuỷ, người ta tin rằng Ái là nguyên do duy nhất của khổ và vì thế xem nó là nguyên do của sinh tử, Luân hồi. Về sau, người ta thấy rằng thoát khỏi Ái chưa đủ mà cần phải dứt bỏ sự chấp Ngã ( Vô ngã ) mới được giải thoát. Ngã là gốc của Ái vì nếu xem Ngã là một thể sống sót độc lập thì mọi thứ tương quan đến Ngã đều dễ sinh ra Ái. Người ta tiến đến giải thoát bằng tri kiến ” cái này không phải là ta, cái này không phải của ta ” và như vậy, Ái tự hoại diệt. Ái Open trong thất tình, ngũ trần, lục dục nhưng đây là những cạm bẫy cần phải tránh xa, những thứ này không hề mãi còn, làm chúng sanh sinh lòng ham muốn tâm tính bị giao động, tiêu trừ phước đức sau cuối không hề tránh khỏi quả báo Khổ về sau .

  • Fo Guang Ta-tz’u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz’u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch’u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *