Những đặc trưng thi pháp cổ tích trong Bánh chưng, bánh giầy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98 KB, 8 trang )

Những đặc trưng thi pháp cổ tích trong truyện Bánh Chưng
Bánh Giầy
Vấn đề phân loại truyện dân gian nhất là trên đơn vị tác phẩm cụ thể,
đang là vấn đề nhức nhối. Chỉ mới năm học 2001-2002 học sinh lớp 6 trong
cả nước đang được học truyện Bánh chưng bánh giầy là cổ tích mà năm học
2002-2003 các em lại được học truyện này là một truyền thuyết. Sách giáo
khoa là pháp lệnh, tại sao lại được thay đổi dễ dàng đến vậy? Phải chăng vì
kiến thức thể loại truyện này của người biên soạn cũ là sai?
1, Thực trạng phân loại truyện Bánh chưng bánh giầy
– Xét về nguồn gốc văn bản, sách Ngữ văn 6 ghi chú: truyện được chọ
dựa theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập I, Nxb Văn học 1977, thế nhưng
thật ra trong tài liệu này người ta lại xếp truyện Bánh chưng bánh giầy vào
cổ tích, trong mục Truyện thần thoại, truyện cổ tích. Như vậy là đã có
một cuộc đối thoại ngầm giữa sách Ngữ văn 6 với Hợp tuyển thơ văn Việt
Nam về vấn đề thể loại của truyện dân gian này.
– Trong giáo trình của Đại học Tổng hợp do Đinh Gia Khánh chủ
biên, truyện Bánh chưng bánh giầy được xếp vào cổ tích.
– Có hai giáo trình đại học không trực tiếp đề cập đến truyện này là
giáo trình ddaij học viết theo tiến trình lịch sử của tác giả Đõ Bình Trị và
giáo trình Đại học Quốc gia do Lê Chí Quế chủ biên. Tuy nhiên quan điểm
của các soạn giả này cũng không khác quan điểm của Đinh Gia Khánh trong
giáo trình vừa nêu trên.
– Hoàng Tiến Tựu, trong giáo trình viết cho Cao đẳng Sư phạm, lại
giữ quan điểm trung dung khi xếp Bánh chưng bánh giầy vào nhóm những
truyện rất khó xếp loại, khi thì ở ô này, khi thì đặt sang ô khác, người thì
coi là cổ tích, người thì coi là truyện dân gian khác.
– Nguyễn Xuân Lạc trong bàig Văn học dân gian trong nhà
trường in trong tạp chí Văn hoá dân gian sô 3 năm 2001 tuy ủng hộ sách
Ngữ văn 6 hiện hành, xếp truyện Bánh chưng bánh giầy vào truyền thuyết
nhưng vẫn thừa nhận những đặ điểm cổ tích ở trong đó. Thực tế trên cho
thấy rằng chỉ có soan giả sách giáo khoa Ngữ văn 6 là khẳng định truyện

Bánh chưng bánh giầy thuộc thể loại truyền thuyết mà thôi.
Vấn đề phân loại tác phẩm văn học dân gian nói chung, truyện dân
gian nói riêng là vấn đề rất khó vì rằng tác giả dân gian khi sáng tạo không
hề xuất phát từ những nguyên lý lý luận có trước như các tác gỉa văn học
viết. Đó là chưa kể sự lưu truyền bằng miệng trong một quá trình lịch sử lâu
dài cũng góp phần làm biến tướng của tác phẩm văn học dân gian theo
những chiều hướng khác nhau. Những lí do trên đã tạo nên loại hình truyện
dân gian những tác phẩm mang dấu hiệu của nhièu thể loại khác nhau. Trong
khi đó việc xác định đúng thể loại lại hết sức cần thiết, nhất là đối với những
tác phẩm được chọn giảng trong nhà trường.
Trước hết không thể phủ nhận những dấu hiệu của một truyền thuyết
có mặt trong truyện Bánh chưng bánh giầy. Truyện đã hướng người đọc vào
một thời gian khá xác định- thời Hùng vương thứ 6. Xác định cụ thể thời
gian không gian nghệ thuật là xu hướng phổ biến trong truyền thuyết vì rằng
người kể truyền thuyết thường muốn cho người nghe tin vào điều được kể
ra. Tuy nhiên không phải ở truyện nào có thoài gian, không gian nghệ thuật
xác định thì truyện đó phải là truyền thuyết.
Người ủng hộ quan điểm của soạn giả Ngữ văn 6 là Nguyễn Xuân Lạc
khi cho rằng truyện Bánh chưng bánh giầy dấu ấn truyền thuyết rõ hơn vì
các chi tiết lịch sử thời vua Hùng đậm nét hơn, đã dựa vào tiêu chí nội
dung để xác định thể loại của truyện khi đúng ra tiêu chí nghệ thuật còn
quan trong hơn. Những mảng nội dung xã hội rộng lớn thường là đề tài của
nhiều loại hình nghệ thuật, bởi vậy không thể lấy nó làm tiêu chí hàng đầu
lại càng không thể là tiêu chí duy nhất đẻ xác định thể loại. Cái tạo ra sự
khác biệt giữa các thể loại chính là hệ thống thi pháp tức là toàn bộ những
phương thức, phương tiện tạo dựng nên tác phẩm nghệ thuật. Một khi đã
cùng là nghệ thuật ngôn từ thì vấn đề phương tiện phản ánh đã gần như đồng
nhất với nhau giữa các thể loại, vấn đề còn lạ sẽ là phương thức tạo dựng tác
phẩm mà đối với loại hình tự sự thì đó trước hết là nhân vật và cốt truyện.
Dựa vào những đặc trưng thi pháp nhân vật và thi pháp cốt truyện

trong truyện chúng ta thấy Bánh chưng bánh giầy mang nhiều ddawcj điểm
của một truyện cổ tích hơn, đến mức không thể xếp nó vào thể loại truyền
thuyết được.
2, Những đặc điểm thi pháp cổ tích trong truyện Bánh chưng bánh giầy.
2.1 Đặc điểm thi pháp nhân vật
Nhân vật chính và cốt truyện là những yếu tố cơ bản tạo nên một tác
phẩm tự sự. Nhwn vật chính bao giờ cũng đóng vai trò trung tâm trong việc
thể hiện đề tài. Chính vì vậy, dựa vào đặc điểm xây dựng nhân vật người ta
cũng có thể nhận biết được thể loại truyện đó. khảo sát nhân vật chính trong
truyện Bánh chưng bánh giầy chúng ta sẽ thấy rất roc hình tượng Lang Liêu
mang đầy đủ những đặc điểm thi pháp nhân vật của một truyện cổ tích.
– Trước hết Lang Liêu không phải là một nhân vật bán thần như các nhân vật
trong truyền thuyết thời Hùng vương.
Dựa vào đặc trưng xây dựng nhân vật, các nhà khoa học đã chia các
truyền thuyết lịch sử thành hai bộ phận: những truyền thuyết thời kì dựng
nước thuộc thế hệ các vua Hùng và các truyền thuyết thời đại giữ nước( thời
phong kiến). Những người xem truyện Bánh chưng bánh giầy không phải kà
truyền thuyết đã dựa vào các chi tiết như Hùng vương thứ 6 chọn người kế
vị, Lang Liêu được chọn nối ngôi vua, tục giỗ chạp bằng bánh chưng bánh
giầy để xếp truyện này vào nhóm truyền thuyết lịch sử thời đại các vua
Hùng. Và khi nhận xét về đặc điểm của loại truyền thuyết thời kì này họ
viết: So với truyền thuyết thời kì đầu dựng nước, những truyền thuyết thời
kì sau ít hoang đường hơn. Nghĩa là họ thừa nhận tính chất hoang đường
đậm đặc của bộ phận truyền thuyết này như một đặc điểm nhận diện quan
trọng.
Quả thật, các nhân vật truyền thuyết thời vua Hùng như Lạc Long
Quân, Thánh Gióng đều được thần thánh hoá cao độ, bởi thế mà không phải
ngẫu nhiên trước đây các nhiều nhà khoa học đã xếp nhầm các truyện này
vào thần thoại. Chúng ta biết rằng truyền thuyết thời các vua Hùng đều ra
đời rất sớm, khi mà thế giới quan thần linh chủ nghĩa, hệ tư tưởng chủ yếu

để sinh ra thần thoại, chưa bị tan rã như các thời đại về sau. Khi đề cao các
anh hùng lịch sử, thế giới quan này đã giúp tác giả dân gian thần thánh hoá
họ, biến họ thành những con người có sức mạnh thần kì chứ không phải là
những nhân vật lịch sử được các thần linh giúp đỡ như An Dương Vương,
Lê Lợi sau này. Tuy nhiên xem xét kĩ cũng sẽ nhận thấy nhân vật chính
của thời Hùng vương khác nhân vật chính của thần thoại ở chỗ nhân vật thần
thoại là thần, tức là những sức mạnh tự nhiên được hình nhân hoá trong khi
nhân vật truyền thuyết thời kì này là người được thần thánh hoá. Ngày nay
khi nói về đặc điểm của các nhân vật trong các thể loại truyện dân gian
người ta cho rằng nhân vật chính trong truyền thuyết thời Hùng Vương là
bán thần để phân biệt với nhân vật chính trong thần thoại là thần còn nhân
vật chính của cổ tích là những người dưới cùng của các lực lượng xã hội.
Điều mà cả soạn giả sách Ngữ văn 6 và Nguyễn Xuân Lạc đều không
chú ý tới là truyện Bánh chưng bánh giầy nhân vật Lang Liêu không hề
mang màu sắc thần thánh như các nhân vật truyền thuyết thời Hùng Vương.
Lang Liêu chỉ được thần giúp đỡ bằng lời báo mộng chứ chàng không có sức
mạnh thần thánh như Lạc Long Quân, như Thánh Gióng. Chàng hoàn toàn là
người đời thường thậm chí là người dưới cùng trong tầng lớp lang. Lang
Liêu trong truyện Bánh chưng bánh giầy chỉ là sự gán ghép một nhân vật cổ
tích với một vị vua, một thời kì lịch sử đã ăn đậm vào trong tiềm thức của
nhân dân. Hình tượng này không mang đặc điểm của một truyền thuyết mà
mang đậm những đặc điểm thi pháp của một nhân vật cổ tích.
– Lang Liêu thuộc mô típ nhân vật thấp hèn.
Trong cổ tích chúng ta bắt gặp một loại mô típ nhân vật phổ biến, đó
là nhân vật thấp hèn. Cái thấp hèn được thể hiện thông qua các nhân vật
dưới cùng của xã hội hoặc có khi là của một tầng lớp. Đó là những người mồ
côi, những người ở, là em út trong nhà, là anh trai cày
Lang Liêu thuộc nhân vật dưới cùng của một tầng lớp, chàng là con
thứ mười tám trong số hai mươi người con của Hùng Vương thứ 6, nhưng lại
là đứa con mồ côi, bị bỏ rơi phải về quê cày ruộng. Chàng rất giống các

nhân vật Hoàng tử út trong các truyện cổ tích Châu Âu. Đó là người thiệt
thòi hơn các Hoàng tử anh vì không được vua cha yêu dấu, nhưng lại là
người đức độ hiếu thảo và nhờ vậy được thần linh giúp đỡ, được trang bị các
trợ thủ thần kì và là người chiến thắng cuối cùng và được lên làm vua
Nhân vật thấp hèn trong cổ tích chính là hình ảnh tượng trưng cho
thân phận của những người lao động trong xã hội cũ.
– Lang Liêu thuộc mô típ nhân vật bất hạnh.
Chính nhân vật thấp hèn cũng là nhân vật bất hạnh rồi, thế nhưng do
tính chất cực đoan trong xây dựng nhân vật cho nên nhân vật cổ tích còn
được đặt trong những hoàn cảnh éo le. Chúng ta bắt gặp trong cổ tích người
Việt một Chử Đồng Tử nghèo đến mức sau khi cha chết đến khố cũng không
còn đủ để che thân, một Văn Linh mồ côi mẹ bị dì ghẻ hãm hại ( truyện
Người dì ghẻ ác nghiệt hay sự tích con dế – KTTCTVN) một chàng đánh cá
nghèo hèn cả gia tài chỉ có một con thuyền nhỏ ( truyện Con gái thần nước
mê chàng đánh cá) chúng ta cũng gặp trong cổ tích nhiều nước Châu Âu
một cô LọLem cũng bất hạnh như cô Tấm trong truyện Tấm Cám của cổ tích
người Việt Tất cả đều là những kẻ mồ côi, là người bất hạnh.
Theo các chi tiết trong truyện thì Lang Liêu là người thiệt thòi nhất vì
mẹ chàng xưa kia bị vua cha ghẻ lạnh, ốm rồi chết. Như vậy, Lang Liêu
không chỉ thuộc loại dưới cùng của một tầng lớp ( Hoàng tử út) mà còn là kẻ
mồ côi, kẻ bất hạnh, một mô típ phổ biến trong cổ tích nước ta và thế giới.
Rõ ràng nhân vật Lang Liêu cũng được tác giả dân gian xây dựng theo mô
típ phổ biến này.
– Lang Liêu là mô típ nhân vật nhân cách.
Những nhân vật chính, chính diện trong cổ tích thường mang những
nét đẹp về nhân cách. Đó là những nhân vật mang đức tính nghĩa tình, chung
thuỷ, trung thực, thương người nhưng phổ biến nhất là loại nhân vật cần cù
lao động. Chính nhờ những đức tính tốt đẹp đó mà họ được các lực lượng
thần kì giúp đỡ để đạt được chiến thắng cuối cùng. Chúng ta bắt gặp trong
cổ tích vô cùng nhiều loại nhân vật cần cù như cô Tấm, Thạch Sanh, Sọ

Dừa, anh trai cày ( cây tre trăm đốt), người em ( trong truyện Hai anh em và
con chó đá), anh nông dân nghèo (trong truyện Người dân nghèo và Ngọc
Hoàn
Những đặc điểm trên đây ( thấp hèn, bất hạnh và tốt) thường đi kèm nhau
và rất điển hình cho hình ảnh người lao động, dù họ có những xuất thân khác
nhau. Có thể đó là một hoàng tử, một Hoàng tử út bị ghẻ lạnh, có thể đó là
một chàng trai cày nhưng muốn có vợ phải trở thành người đi ở ( Cây tre
trăm đốt), có thể đó là một cô gái mồ côi mẹ ( Tấm), nhưng cũng có thể là
cậu bé mồ côi cha Cái chung nhất trước hết ở họ là thấp hèn và bất hạnh.
Nhưng như thế chưa đủ, họ còn phải tốt, phải rất tốt cơ. Bởi vì có tốt như thế
họ mới được Thần Phật giúp đỡ, mới được hưởng hạnh phúc xứng đáng,
thoả đáng. Tuy nhiên tốt chỉ là khái niệm bao quát. Trong truyện cổ tích, tác
giả dân gian khong chỉ ra cái tốt, cái xấu chung chung mà đó là những phạm
trù đối lập hết sức cụ thể: hiền lành- độc ác; không tham lam- tham lam;
nhân từ- xấu bụng nhưng có lẽ nhiều hơn cả vẫn là siêng năng và lười
biếng. Các nét nhân vật này ít khi tồn tại độc lập mà thường kết hợp vài ba
nét nhân cách khác nhau cùng tuyến trong một nhân vật. Điểm chung nhất
trong cách thể hiện các nhân vật này trong cổ tích là rất cực đoan. Nghĩa là
nhân vật phải rất tốt để xứng đáng với phần thưởng rất lớn mà họ sẽ được
hưởng ở cuối truyện.
Lang Liêu là người đại diện cho tình yêu lao động của tác giả dân gian.
Chàng là một kẻ mồ côi, một thân phận bất hạnh, nhưng cũng là một nhân
cách đẹp, suốt ngày chỉ chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, rồng khoai.
Hình tượng Lang Liêu chính là hình ảnh người nông dân một nắng hai
sương, nhưng cũng chính là người làm ra của cải nuôi sống muôn người.
– Lang Liêu là mô típ nhân vật đổi đời.
Lang Liêu đang từ một người bị ghẻ lạnh phải về sống nghèo khổ nơi
thôn dã bỗng được chọn làm người kế vị vua. Đây là loại nhân vật chính phổ
biến trong những truyện cổ tích kết thúc có hậu, một kết thúc dựa trên ước
mơ của người lao động. Sự đổi đời trong loại cổ tích này thường là nhân vật

được hưởng hạnh phúc tuyệt đỉnh: có nhiều vàng bac châu báu, được làm
vua, làm hoàng hậu, làm phò mã Trong loại truyện này tác giả dân gian
muốn chững minh triết lý Ở hiền gặp lành và cái hạnh phúc mà nhân vật
chính- chính diện được hưởng dù có quá đi bởi ước mơ của họ thì cũng có
phần xứng đáng với công sức lao động mà nhân vật đã thực hiện từ đầu
truyện.
Chính vì lý do này các nhân vật đổi đời bao giờ cũng mang những
nhân cách cực đoan tức là rất tốt để xứng đáng với phần thưởng to lớn mà họ
được hưởng. Thật ra với kiểu nhân vật đổi đời tác giả dân gian đã thực hiện
cái hẳn nhiên dù chưa khả nhiên trong xã hội bất công.
Rõ ràng loại nhân vật thân phận, nhân vật nhân cách, nhân vật đổi
đời như Lang Liêu, như người em ( trong truyện Cây Khế), anh trai cày đi
ở ( trong truyện Cây tre trăm đốt), cô Tấm và chàng Thạch Sanh mồ côi
( trong truyện Tấm Cám và truyện Thạch Sanh), vua Heo ( trong truyện Vua
Heo) là những môtíp thường gặp trong cổ tích. Những loại truyện này là
những cổ tích nhằm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động
chứ không hề hướng tới một vấn đề lịch sử trọng đại như truyền thuyết. Hơn
thế nữa, nhân vật cổ tích là những nhân cách đời thường, đấu tranh vì những
quyền lợi đời thường, của mỗi cá nhân, cho nên dẫu có được lên làm vua
như Thạch Sanh thì cũng chỉ để thoả mãn khát vọng đổi đời của một con
người đại diện cho một tầng lớp chứ không hề thay đổi vận mệnh của cả
cộng đồng như nhân vật truyền thuyết. Truyền thuyết, nhất là truyền thuyết
thời đại các vua Hùng, không xây dựng nhân vật kiểu này, nhân vật của nó
có khẩ năng ảnh hưởng đến vận mệnh của cả một cộng đồng.
Tóm lại chỉ mới xét đặc trưng thi pháp của nhân vật chính trong
truyện chúng ta đã thấy việc xếp truyện Bánh chưng bánh giầy vào truyền
thuyết thời đại các vua Hùng là không hợp lý.
Hình như chính những dấu hiệu trên đây đã khiến cho soạn giả sách
Ngữ văn 6 lúng túng khi phân tích truyện Bánh chưng bánh giầy với tư cách
là một truyền thuyết. Đáng ra trong phần Ghi nhớ phải chỉ cho học sinh

thấy rõ những chi tiết nghệ thuật trong truyện tiêu biểu cho thể loại truyền
thuyết thì sách lại đưa ra một kết luận hết sức chung chung: Truyện có
nhiều chi tiết nghệ thuật tiêu biểu cho truyện dân gian( nhân vật chính- Lang
Liêu- trải qua cuộc thi tài, được thần giúp đỡ và được nối ngôi vua ). Thật
ra chi tiết mà sách dẫn ra trên đây lại tiêu biểu cho cổ tích vì rằng các cuộc
thi tài và chiến thẵng của những nhân vật vốn có nguồn gốc thấp hèn là hiện
tượng phổ biến trong cổ tích mà nhờ đó họ được hưởng phần thưởng xứng
đáng, thoả đáng, tức là truyện kết thúc có hậu.
Nhân vật chính của truyền thuyết không phải là những mẫu người đời
thường như thế mà chủ yếu là các anh hùng lịch sử và đối với người nghe
truyền thuyết, đó là những bậc tôn ti( chữ của Bakhtin). Truyền thuyết bao
giờ cũng đề cập đến những sự kiện đã xảy ra, chức năng của nó là đánh giá
các nhân vật lịch sử, các sự kiện lịch sử với cảm hứng chủ đạo là ngợi ca

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *