Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa I Nguyễn Thị Mận – Khoa Sản Phụ Khoa – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Bác sĩ đã có trên 10 năm kinh nghiệm trong việc chẩn đoán, tư vấn và điều trị trong lĩnh vực Sản Phụ khoa.

Đánh giá CTG là một đánh giá có tính chất hệ thống và toàn diện. Bất kỳ sự sai lệch nào vượt ra ngoài các đường biểu diễn bình thường cũng cần được nhận biết và phân tích để đưa đến một kết luận đúng đắn trong quá trình theo dõi chuyển dạ, để tránh dẫn đến can thiệp muộn hoặc can thiệp không cần thiết cho mẹ và thai nhi. Vì vậy theo dõi sức khỏe thai bằng chỉ số CTG đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong quá trình chuyển dạ.

Đo CTG là gì? Đo CTG là đo tim thai và hoạt động của cơ co tử cung bằng máy theo dõi tim thai có tên là monitoring sản khoa. Monitor sản khoa (hay EFM) nói đến sự ghi lại đồng thời nhịp tim thai và hoạt động của cơ co tử cung. Đường biểu diễn thu được gọi là Cardiotocogram (CTG).

1. Đường biểu diễn tim thai bình thường và bất thường

CTG ( Cardiotocography ) được thực thi khi có cơn gò tử cung. Trên giấy monitoring sẽ ghi nhận lại diễn biến của cơn gò tử cung và nhịp tim thai. Vậy đường màn biểu diễn tim thai như thế nào là thông thường ?

  • Nếu từ 120- 160 nhịp/phút đối với thai đủ tháng: Bình thường;
  • Nếu >160 nhịp/phút: Nhịp nhanh;
  • Nhịp tim thai cơ bản nằm trong khoảng 100-120 nhịp/phút: Mức nghi ngờ;
  • Nhịp tim thai cơ bản < 100 nhịp/phút: Nhịp chậm.

Đường biểu diễn tim thai thế nào là bất thường? Nếu trên 160 nhịp gọi là nhịp nhanh hoặc nếu dưới 100 nhịp gọi là nhịp giảm. Trong khoảng 100-120 là có dấu hiệu nghi ngờ:

  • Nhịp chậm: nguyên nhân của nhịp chậm là do mẹ dùng thuốc (hạ huyết áp), mẹ tụt huyết áp hoặc choáng, co giật, hạ thân nhiệt, ối vỡ non, ối vỡ sớm, chèn ép dây rốn, nhau bong non, thai già tháng, rối loạn nhịp tim thai, block nhĩ thất hoàn toàn;
  • Nhịp nhanh:
    • Nhịp nhanh thường liên quan đến khả năng đối phó của thai nhi với một đe dọa nào đó đối với sức khỏe. Nhịp tim nhanh mà không có các nhịp tăng cùng với giảm hoặc mất dao động nội tại, hoặc nhịp giảm muộn biểu hiện tình trạng thai thiếu oxy nặng nề;
    • Nguyên nhân của nhịp tim thai nhanh bao gồm: mẹ sốt, lo lắng, cường giáp, viêm màng ối, thai nhi thiếu máu, thai bị nhiễm virus hay nhiễm trùng, thai thiếu oxy, sau một nhịp giảm kéo, sau gây tê ngoài màng cứng, bệnh lý tim mạch;

Các đường biểu diễn tim thai cơ bản đặc thù khác:

  • Dịch chuyển đường tim thai cơ bản: Dịch chuyển đường tim thai cơ bản có thể diễn ra theo hướng đi lên hoặc đi xuống. Nếu đi lên có thể do tình trạng nhiễm trùng trong tử cung, thai thiếu oxy do bất kỳ nguyên nhân nào (chèn ép rốn). Dịch chuyển đường tim thai cơ bản trong giai đoạn 2 của chuyển dạ thường liên quan đến pH máu cuống rốn thấp;
  • Đường cơ bản nhấp nhô: Nhịp tim thai chậm nặng nề có thể thấy trong các trường hợp tắc nghẽn tuần hoàn dây rốn, nhau bong non hoặc biến chứng của mẹ như tụt huyết áp, choáng, co giật, vỡ tử cung hay cơ tử cung bị kích thích quá mức. Trong trường hợp đường cơ bản nhấp nhô xuất hiện trong khoảng thời gian giới hạn nhịp tim thai bình thường cũng có thể phản ánh tổn thương thần kinh của thai nhi;
  • Đường cơ bản không rõ: Không xác định được đường tim thai cơ bản. Lý do của đường cơ bản không rõ có thể là một loạt các nhịp tăng, tăng dao động nội tại, các nhịp giảm biến đổi xuất hiện kế tiếp nhau hoặc là rối loạn nhịp tim thai.
  • Nhịp tăng: Là dấu chỉ điểm của bào thai khỏe mạnh hay còn gọi là đường biểu diễn tim thai có đáp ứng;

Theo dõi sức khỏe thai bằng chỉ số CTG

  • Dao động của nhịp tim thai luôn giảm trước khi thai chết, như là hậu quả của tình trạng thiếu oxy và nhiễm toan kéo dài. Một đường biểu diễn tim thai phẳng hay dẹt (dao động nội tại từ 0- 2 nhịp/phút) là một trong những kiểu tim thai đáng ngại nhất. Tuy nhiên chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng một thai nhi đang chết dần vẫn có thể duy trì được một tim thai trong giới hạn bình thường.
  • Nhịp giảm
    • Nhịp giảm sớm : Nhịp giảm sớm trên lâm sàng thường là do phản xạ thần kinh khi đầu thai nhi bị chèn ép vào tiểu khung ở mỗi cơn co tử cung;
    • Nhịp giảm biến đổi : Nhịp giảm biến đổi thường quy cho chèn ép rốn, có thể một phần hay toàn bộ. Sự phối hợp giữa nhịp giảm biến đổi, giảm dao động nội tại, tim thai nhanh tương đối và không thấy có nhịp tăng thường liên quan đến hội chứng hít phân su;
    • Nhịp giảm muộn Nhịp giảm muộn có khởi đầu, đạt trị số cực tiểu và kết thúc ở thời điểm chậm hơn so với cơn co tử cung ít nhất 15 giây. Nhịp giảm muộn đi kèm với giảm dao động nội tại cùng với không có sự hiện diện của nhịp tăng là một dấu hiệu rất muộn của tình trạng thai nhi nguy kịch.

2. Một số nghiệm pháp đánh giá sức khỏe thai nhi bằng chỉ số CTG

2.1 Non- Stress Test (NST)

  • Là biểu đồ ghi nhịp tim thai khi vắng mặt cơn co tử cung nhằm khảo sát đáp ứng tăng nhịp tim thai tiếp theo sau các cử động thai. Thời gian thực hiện tối thiểu là 30 phút. Trắc nghiệm được làm ở tư thế Fowler, hơi nghiêng trái. Cần phải có kết luận rõ ràng khi đọc CTG;
  • Sự hiện diện hay vắng mặt của nhịp tăng – thỏa mãn các tiêu chuẩn đã nêu về thời gian và biên độ – trong một khoảng thời gian nhất định từ 20- 30 phút;
  • Nhịp tim thai phẳng, mất các dao động nội tại. Ước tính tỉ lệ % của biểu đồ phẳng so với toàn biểu đồ sẽ giúp đánh giá tiên lượng của thai nhi;
  • Nếu tôn trọng nghiêm ngặt những điều kiện đã nêu, độ nhạy của NST đạt đến 97%;
  • Ngược lại, đứng trước một NST không đáp ứng, cần thiết phải loại trừ tình trạng ngủ của thai (chu kỳ thức ngủ của thai nhi trung bình khoảng 70-90 phút, trong đó pha ngủ yên kéo dài khoảng 30 phút), xem xét lại các dược phẩm đang sử dụng nhất là các thuốc an thần, cũng như thay đổi tư thế bệnh nhân khi làm NST. Một NST không đáp ứng chỉ có giá trị báo động chứ không có giá trị chẩn đoán. Giá trị dự báo dương tính của NST chỉ 15%. Thường sẽ làm thêm Stress test hay tăng cường việc theo dõi sức khỏe thai nhi.

Theo dõi sức khỏe thai bằng chỉ số CTG

2.2 Stress Test (ST)

  • Mục đích của chứng nghiệm là tạo ra số cơn co tử cung giống như trong giai đoạn hoạt động của chuyển dạ, đủ để đánh giá tình trạng của bào thai. Sau khi đạt được mục đích này, ta ngừng kích thích tử cung. Việc ghi tim thai còn phải tiếp tục thêm 15- 20 phút, đến khi mất hẳn cơn co nhân tạo;
  • Chống chỉ định ST : dọa sinh non, nhau bám thấp, hở eo tử cung.
  • ST được xem là dương tính khi có xuất hiện nhịp giảm khi thực hiện chứng nghiệm này. Gọi là nghi ngờ khi các nhịp giảm xuất hiện trong khoảng < 1/2 tổng số thời gian theo dõi, với điều kiện không có tình trạng tăng trương lực cơ tử cung. Nếu có tăng trương lực của cơ tử cung trong thời gian làm stress test, sẽ không được phép kết luận và phải thực hiện lại sau 48h hoặc bở dỡ tùy tình huống lâm sàng cụ thể.

Việc thực hành tốt monitoring sản khoa, phối hợp với siêu âm và thăm khám lâm sàng có thể giúp cho các nhà thực hành sản khoa có thể phân tích và diễn giải các kết quả của biểu đồ tim thai, phát hiện các bất thường của tim thai và cơn co tử cung có thể xảy ra trong thai kỳ và trong chuyển dạ để có thể xử trí một cách tốt nhất cho thai nhi và sản phụ.

Nếu có triệu chứng không bình thường, bạn nên được thăm khám và tư vấn với bác sĩ chuyên khoa .

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số (phím 0 để gọi Vinmec) hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *