Sáng tác là như thế
Trong buổi nói chuyện của nhà văn Anh Đức, tôi còn nhớ ông bảo rằng nghề viết văn không có thầy. Theo ông, hiện nay, chúng ta có trường dạy viết văn là học theo cách làm của Liên Xô, chứ nghề viết văn làm sao dạy được. Văn cũng như võ, có những cậu bé nhảy ra múa một đường thì các bậc sư phụ đã thấy… lạnh lưng. Trần Đăng Khoa học cấp 1 chưa xong mà viết: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng, thì đố trường viết văn nào dạy được. Do đó, muốn viết văn thì ngoài chút năng khiếu còn phải đi nhiều, nghe nhiều rồi “cảm nhận” nó theo cách của mình…
Nhà văn Anh Đức ( phải ) và nhà thơ Tố Hữu năm 1996Sau màn “ giáo đầu tuồng ” khá ấn tượng, nhà văn Anh Đức đi vào đơn cử một số ít truyện của mình. Nhà văn kể khi tập trung ra miền Bắc, ông được những cây bút đàn anh kèm cặp hướng dẫn như ông đang hướng dẫn những cây bút không chuyên của tổ chức triển khai Công đoàn ở lớp này. Hồi ở miền Bắc, ông được cử đi trong thực tiễn nhiều nơi và viết được 1 số ít truyện ngắn nhưng vẫn “ lềnh lềnh ”, chẳng tạo được dấu ấn gì trong lòng bạn đọc. Cho đến khi ông gặp chị Nguyễn Thị Huỳnh, một phụ nữ hoạt động giải trí cách mạng ở miền Nam tập trung ra Bắc. Từ nhân vật có thật này, ông đã viết nên truyện Một chuyện chép ở bệnh viện .
Thời gian này, những truyện của ông được ký tên thật : Bùi Đức Ái. Lúc vào Nam viết văn, ông mới dùng bút danh Anh Đức. Nhân vật chị Tư Hậu trong truyện và tên phim, chính là nguyên mẫu chị Nguyễn Thị Huỳnh. Nhân vật chị Sứ trong tác phẩm Hòn đất cũng thế. Nguyên mẫu chị Sứ là Phan Thị Ràng ( liệt sĩ ) ở xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Nhưng trong sáng tác không phải khi nào cũng bê nguyên mẫu mà phải có hư cấu, chi tiết cụ thể. Với ông, đó là trách nhiệm của nhà văn !
Muốn bơi thì phải nhảy xuống nước
Sau ngày đất nước thống nhất, tôi biết đến nhà văn Anh Đức qua truyện Đứa con của đất, sau đó có mấy lần gặp ông ở Tuần báo Văn nghệ TP HCM. Ngày ấy, nhà văn Anh Đức trước mắt tôi giống thầy giáo hơn là văn nghệ sĩ như tôi đã biết. Nhà văn Anh Đức có vóc người nho nhã, đẹp trai, nói chuyện điềm đạm và hay… cười ruồi. Qua mấy lần trò chuyện, tôi có cảm giác ông không giấu nghề với lớp trẻ nhưng ông thường nói: “Muốn bơi thì phải nhảy xuống nước. Đọc vạn cuốn sách viết về bơi lội mà không xuống nước thì cả đời sẽ không biết bơi. Nói lý thuyết nhiều quá, khi rớt xuống nước ắt cầm chắc cái chết”.
Đọc truyện của Anh Đức, tôi thấy ông cố tìm ra nét đẹp của con người trong thực trạng khắc nghiệt nhất, hung tàn nhất của cuộc chiến tranh tuy nhiên không thi vị hóa cuộc chiến tranh. Ông viết tự nhiên mà ra văn chứ không phải cố ý làm văn. Trong truyện Đứa con của đất, có đoạn tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần và cứ thấy thương thương : “ Trời tối hẳn. Bà con lối xóm kéo tới độ mươi người. Thời buổi này, mọi cuộc tụ tập, kể cả cuộc đưa đám cũng đều là nguy khốn. Cho nên những người ấy đến nhà tôi một cách im re, như những cái bóng. Và chỉ với chừng ấy người thôi, nhà tôi coi chừng đã chật, bởi gọi là nhà chớ kỳ thiệt nó chỉ nhỉnh hơn cái chòi giữ dưa một chút ít mà thôi. Kế đó, tôi nghe mọi người bàn tới tính lui mãi về vụ ván đóng hòm. Là bởi nhà tôi vốn không có ván, bà con lối xóm cũng chẳng nhà ai có bộ ván nguyên vẹn nào. Rốt cuộc mỗi nhà phải gom góp lại từng tấm ván để đóng hai cái hòm. Lúc bà con tẩm liệm cho ba má tôi, ngó thấy nắp hòm đậy lại tôi vùng la ré lên rồi chạy nhào tới, vẹt mấy người đứng chung quanh ra. Bà con chụp ghì chặt lấy tôi. Tôi la kinh hoàng, khi nghe tiếng đóng nắp ván hòm vang lên cum cum. Tôi có cảm tưởng những cây đinh kia không phải đóng vào ván, mà đóng vào giữa tim tôi ” .
Bây giờ, thân quyến, bè bạn và bạn đọc lâu nay của ông chắc cũng nghe tiếng “ cum cum ” trong trái tim mình. “ Đứa con của đất ” nay đã trở lại với đất .
Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
Nhà văn Anh Đức tên khai sinh là Bùi Đức Ái, sinh ngày 5-5-1935 tại xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Ông đã qua đời lúc 21 giờ ngày 21-8 tại TP TP HCM vì tuổi cao sức yếu. Linh cữu quàn tại 81 Trần Quốc Thảo, Q. 3, TP HCM. Lễ viếng từ lúc 7 giờ 30 phút ngày 23-8. Lễ truy điệu vào lúc 7 giờ 30 phút ngày 24-8, sau đó đưa đi an táng tại Nghĩa trang Thành phố .
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Từ năm 1953, ông là biên tập viên Báo Cứu Quốc Nam Bộ, gắn bó với công tác làm báo và sáng tác văn học. Năm 1954, tập kết ra Bắc, ông làm biên tập văn học ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 1962, ông công tác tại Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Giải phóng.
Sau ngày quốc gia thống nhất, ông kinh qua những chức vụ : Phó Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ TP TP HCM, Tổng Biên tập Tạp chí Văn và Tạp chí Kiến thức ngày này ; Ủy viên Ban Thư ký Hội Nhà văn Nước Ta khóa II, III, V và Phó Tổng Thư ký Hội Nhà văn Nước Ta khóa VI ; Phó quản trị kiêm Bí thư Đảng đoàn Liên hiệp Văn học thẩm mỹ và nghệ thuật TP Hồ Chí Minh năm 1995 – 2002 … ; đại biểu Quốc hội khóa VII .
Tác phẩm đã xuất bản : Biển động ( 1952 ), Lão anh hùng dưới hầm bí hiểm ( 1956 ), Một chuyện chép ở bệnh viện ( 1958 ), Biển xa ( 1960 ), Bức thư Cà Mau ( 1965 ), Giấc mơ ông lão vườn chim ( 1970 ), Hòn đất ( 1966 ), Đứa con của đất ( 1976 ), Miền sóng vỗ ( 1985 ) …
Trao Giải văn học : Văn nghệ Cửu Long Nam Bộ ( 1952 ), Giải nhất truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ ( 1958 ), Trao Giải Nguyễn Đình Chiểu ( 1965 ) …, đặc biệt quan trọng là Trao Giải Hồ Chí Minh ( 2000 ) .
Source: http://139.180.218.5
Category: Kiến thức học đường