Jazz là một thể loại âm nhạc bắt nguồn từ cộng đồng người châu Phi ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Jazz nổi lên ở nhiều nơi trên nước Mỹ với phong cách âm nhạc độc lập phổ biến vào thời đó; liên kết bằng kết nối chung giữa âm nhạc Mỹ gốc châu Âu và âm nhạc Mỹ gốc Phi với một xu hướng thiên về biểu diễn.[1] Jazz có lịch sử kéo dài hơn 100 năm, từ thời kỳ ragtime tới ngày nay, và rất khó để có thể định nghĩa hoàn hảo. Jazz thường ứng tác, sử dụng polyrhythm (phức điệu), nhấn lệch (syncopation) và nốt swing,[2] cũng như những khía cạnh của hòa âm châu Âu, âm nhạc đại chúng nước Mỹ,[3] và các yếu tố âm nhạc châu Phi như nốt blue và ragtime.[1]

Jazz lan ra khắp quốc tế, nó hiện hữu tại mọi nền văn hóa truyền thống âm nhạc vương quốc, vùng, và khu vực, phát sinh ra nhiều phong thái riêng không liên quan gì đến nhau.

New Orleans jazz khởi đầu vào đầu thập niên 1910, tích hợp đội hình brass band quân đội, điệu quadrille, biguine, ragtime và blues với ứng tác phức điệu tập thể. Thập niên 1930, swing big band, Kansas City jazz, và Gypsy jazz là những phong thái nổi trội. Bebop Open vào thập niên 1940, đưa jazz từ thứ âm nhạc đại chúng nhảy nhót thành ” âm nhạc của nhạc công “, với nhịp độ nhanh và ứng tác dựa trên hợp âm. Cool jazz tăng trưởng vào cuối thập niên 1940, ra mắt loại âm nhạc bình tĩnh và quyến rũ hơn với những dòng giai điệu dài .

Thập niên 1950 tận mắt chứng kiến sự nổi lên của không lấy phí jazz, khi nhạc công chơi nhạc mà không cần beat hay cấu trúc nào, và hard bop, mang theo tác động ảnh hưởng từ rhythm and blues, nhạc Phúc âm, và blues, đặc biệt quan trọng ở cách chơi piano và saxophone.

Modal jazz sinh ra cũng vào những năm 1950, sử dụng mode làm cơ sở của cấu trúc âm nhạc và ứng tác. Jazz-rock và jazz fusion Open vào cuối thập niên 1960 – đầu 1970, phối hợp ứng tác jazz với phần nhịp ( rhythm ), nhạc cụ điện và âm thanh được khuếch đại của rock. Thập niên 1980, smooth jazz trở nên thành công xuất sắc, có được nhiều lượt phát trên radio cũng như sự quan tâm từ đại chúng .

Tên và định nghĩa

Câu hỏi về nguồn gốc của từ jazz đã được xác định qua một số nghiên cứu, và có nhiều thông tin về lịch sử của nó. Từ này khởi đầu [dưới một số cách viết khác nhau] như một từ lóng Bờ Tây vào năm 1912, nó được sử dụng với nhiều nghĩa nhưng đều không liên quan đến âm nhạc. Việc dùng từ này với ý nghĩa âm nhạc được xác định sớm nhất là vào năm 1915 trong báo Chicago Daily Tribune. Số báo ngày 14 tháng 11 năm 1916 của tờ Times-Picayune có một bài viết về “những ban nhạc jas”, đây là lần đầu tiên từ jazz được dùng trong ngữ cảnh âm nhạc tại New Orleans.

Khó để định nghĩa được jazz, vì nó có lịch sử vẻ vang dài hơn 100 năm qua nhiều thời kỳ và toàn cảnh khác nhau, từ ragtime tới jazz fusion ảnh hưởng tác động bởi rock thập niên 2010. Nhà phê bình Joachim-Ernst Berendt cho rằng thuật ngữ jazz nên có một định nghĩa rộng hơn, xác lập nó là ” một dạng âm nhạc nghệ thuật và thẩm mỹ Open tại Hoa Kỳ qua sự phối hợp giữa âm nhạc người da đen và âm nhạc châu Âu “.

Theo quan điểm của Robert Christgau, ” đa phần chúng tôi sẽ nói rằng tạo ra nghĩa mới đồng thời thả lỏng nó ra là tinh túy và lời hứa của jazz. ” [ 8 ]Một định nghĩa gồm có toàn bộ những thời kỳ khác nhau của jazz được đề xuất kiến nghị bởi Travis Jackson : ” nó là loại âm nhạc gồm những đặc thù như swing, ứng tác, tác động ảnh hưởng cộng hưởng trong nhóm, tăng trưởng một ‘ lời nói cá thể ‘, và lan rộng ra cho những năng lực âm nhạc khác “. Krin Gibbard cho rằng ” jazz là một cấu trúc ” mà, tuy tự tạo, vẫn hữu dụng để gọi ” một số ít loại nhạc có đủ nét chung để hiểu rằng là một phần của một truyền thống lịch sử [ âm nhạc ] đồng nhất “.

Bài chi tiết cụ thể : RagtimeSự giải phóng nô lệ năm 1865 đã đem đến những thời cơ mới cho người Mỹ gốc Phi tự do. Dù vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều người trong số họ đã tìm được chỗ đứng trong ngành vui chơi.

Những nhạc công da đen đã hoàn toàn có thể chơi nhạc trong những buổi khiêu vũ, những đoàn hát rong, và vaudeville, nhiều ban nhạc cũng được xây dựng. Các nhạc công piano da đen trình diễn trong bar, club, và cả nhà thổ. Ragtime được phổ cập bởi những nhạc sĩ như Ernest Hogan. Một số ít ca khúc của ông trở thành hit năm 1895 ). Năm 1897, Vess Ossman thu âm một medley banjo solo có tên ” Rag Time Medley “. Cũng trong năm này, nhà soạn nhạc người da trắng William H. Krell ra đời ” Mississippi Rag “, bản nhạc piano ragtime không lời tiên phong được sáng tác, và Tom Turpin phát hành ” Harlem Rag “, bản ragtime tiên phong được ra đời bởi một người Mỹ gốc Phi .Nhạc công piano Scott Joplin thu âm ” Original Rags ” năm 1898, và 1899 có bản hit toàn thế giới ” Maple Leaf Rag “, một bản hành khúc ragtime gồm bốn phần với những đoạn ” theme ” tuần hoàn. Cấu trúc của bản nhạc này đã trở thành cơ sở cho những khúc nhạc rag khác.

Một phân đoạn trong ” Maple Leaf Rag ” của Scott Joplin ( 1899 ) .
Bài chi tiết cụ thể : Blues
Bài cụ thể : Dixieland

Thập niên 1920 và 1930

Thời đại Jazz

Khởi đầu của nhạc jazz châu Âu

Thập niên 1940 và 1950

” Âm nhạc Mỹ ” — tác động ảnh hưởng của Ellington

Bài cụ thể : BebopVào đầu thập niên 1940, những nghệ sĩ phong thái bebop mở màn đưa jazz từ một thể loại âm nhạc đại chúng ” nhảy nhót ” thành một loại ” âm nhạc của nhạc công. ” Các nhạc công bebop có nhiều ảnh hưởng tác động nhất là Charlie Parker ( saxophone ), Bud Powell và Thelonious Monk ( piano ), Dizzy Gillespie và Clifford Brown ( trumpet ), và Max Roach ( trống ). Vì thực chất không phải nhạc nhảy, bebop ít phổ cập và ít thành công xuất sắc thương mại hơn .

Cuối thập niên 1940, bebop được thay thế bởi những âm thanh thiên về sự bình tĩnh và mượt mà của cool jazz, thường có những dòng giai điệu dài. Thể loại này nổi lên tại thành phố New York, và thống trị jazz trong nữa đầu thập niên 1950. Điểm bắt đầu của cool jazz là một album tổng hợp các đĩa đơn 1949 và 1950 của một nhóm nhạc sĩ do Miles Davis chỉ huy, album này tên Birth of the Cool. Các bản thu cool jazz của các tên tuổi như Chet Baker, Dave Brubeck, Bill Evans, Gil Evans, Stan Getz và the Modern Jazz Quartet có âm thanh “nhẹ hơn” đối nghịch với tốc độ và sự khó nghe của bebop.

Cool jazz sau đó bị đồng nhất với giới West Coast jazz, nhưng đã nó dấu ấn nhất nhất định tại châu Âu, đặc biệt quan trọng là Scandinavia, nơi tạo nên nghệ sĩ tenor saxophone Lars Gullin và piano Bengt Hallberg. Thể loại này cũng tác động ảnh hưởng lên sự tăng trưởng của bossa nova, modal jazz, và thậm chí còn không lấy phí jazz .
Hard bop về thực chất là sự lan rộng ra của bebop ( hay ” bop ” ) bằng cách thêm vào những ảnh hưởng tác động của rhythm and blues, nhạc Phúc âm và blues, đặc biệt quan trọng trong cách chơi saxophone và piano. Hard bop định hình năm 1953 và 1954, tăng trưởng từ giữa thập niên 1950 ; sự tăng trưởng của nó một phần là để đáp lại phong thái cool jazz phổ cập đầu thập niên 1950. Bộ ngũ Art Blakey and the Jazz Messengers, xây dựng bởi Art Blakey ( với sự tham gia của Horace Silver và Clifford Brown ), và Miles Davis, đã tiên phong cho trào lưu hard bop .

Thập niên 1960 và 1970

Post-bop jazz là một dạng nhạc jazz xuất phát từ những phong thái ” bop ” trước đó. Nguồn gốc của tiểu thể loại này nằm ở những tác phẩm của John Coltrane, Miles Davis, Bill Evans, Charles Mingus, Wayne Shorter và Herbie Hancock. Thông thường, thuật ngữ post-bop được dùng để chỉ jazz từ giữa thập niên 1960 trở về sau mang theo ảnh hưởng tác động của, nhưng không hề giống hệt với hard bop, modal jazz, avant-garde jazz và không lấy phí jazz .

Nhiều đĩa nhạc post-bop được thu âm cho Blue Note Records, nổi bật gồm Speak No Evil của Shorter; The Real McCoy của McCoy Tyner; Maiden Voyage của Hancock; Miles Smiles của Davis; và Search for the New Land của Lee Morgan.

Ảnh hưởng bởi âm nhạc châu Phi

Xu hướng khác

Thập niên 1980

Sự phục sinh của jazz truyền thống cuội nguồn

David Sanborn, 2008Đầu thập niên 1980, một dạng thương mại của jazz fusion được gọi là ” pop fusion ” và ” smooth jazz ” trở nên thành công xuất sắc. Điều này thiết lập và tương hỗ cho sự nghiệp của những ca sĩ gồm Al Jarreau, Anita Baker, Chaka Khan và Sade, cũng như những nhạc công saxophone như Grover Washington, Jr., Kenny G, Kirk Whalum, Boney James và David Sanborn. Nói chung, smooth jazz có nhịp độ chậm ( hầu hết những track có nhịp độ 90 – 105 BPM ), và có một nhạc cụ chính chơi giai điệu ( saxophone, thường là soprano và tenor, guitar điện legato cũng phổ cập ) .

Acid jazz, nu jazz và jazz rap

Acid jazz tăng trưởng ở Anh vào thập niên 1980 và 1990, tác động ảnh hưởng bởi jazz-funk và nhạc điện tử. Nghệ sĩ jazz-funk gồm Roy Ayers và Donald Byrd thường được xem là những người báo hiệu về acid jazz. jazz được tác động ảnh hưởng bởi hòa âm và giai điệu jazz, nhưng thường không có góc nhìn ứng tác. Nó hoàn toàn có thể thử nghiệm ( experimental ) và có nhiều âm thanh và chủ đề khác nhau. Có thể phối hợp nhạc cụ màn biểu diễn với những beat của jazz house ( như St Germain, Jazzanova và Fila Brazillia ) hoặc jazz ứng tác đội hình ban nhạc với những yếu tố nhạc điện tử ( như The Cinematic Orchestra, Kobol và phong thái ” future jazz ” Na Uy đứng vị trí số 1 bởi Bugge Wesseltoft, Jaga Jazzist và Nils Petter Molvær ) .

Jazz rap phát triển vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, và cho ảnh hưởng nhạc jazz vào hip hop. Năm 1988, Gang Starr phát hành đĩa đơn đầu tay “Words I Manifest”, lấy đoạn nhạc mẫu (sample) từ “Night in Tunisia” của Dizzy Gillespie, Stetsasonic phát hành “Talkin’ All That Jazz”, lấy sample từ Lonnie Liston Smith. Album đầu tiên của Gang Starr, No More Mr. Nice Guy (1989) và “Jazz Thing” cũng lấy sample từ Charlie Parker và Ramsey Lewis. Những nhạc phẩm hip hop mang chất jazz khác là Straight Out the Jungle (1988) của Jungle Brothers, People’s Instinctive Travels and the Paths of Rhythm (1990) và The Low End Theory (1991) của A Tribe Called Quest. Bộ đôi Pete Rock & CL Smooth đưa âm hưởng jazz vào album đầu tay Mecca and the Soul Brother (1992). Series Jazzmatazz của rapper Guru bắt đầu năm 1993, sử dụng nhạc sĩ jazz trong các bản thâu phong thu.

Punk jazz và jazzcore

Với sự nới lỏng về tính chính thống được tập trung vào post-punk đương thời ở London và thành phố New York đưa đến cảm hứng mới cho nhạc jazz. Tại London, the Pop Group bắt đầu kết hợp free jazz và dub reggae vào chất nhạc punk rock. Tại New York, No Wave lấy thẳng nguồn cảm hứng từ free jazz và punk. Ví dụ cho phong cách này là Queen of Siam của Lydia Lunch,James Chance and the Contortions (kết hợp Soul với free jazz và punk)[18] và the Lounge Lizards (nhóm nhạc đầu tiên tự gọi mình là “punk jazz).”

Xem thêm: Kèn alto saxophone

John Zorn nhấn mạnh vào tốc độ và sự nghịch tai thường thấy trong punk rock, và hợp nhất phong cách này vào free jazz với việc phát hành Spy vs. Spy năm 1986, một tập hợp những bản cover của Ornette Coleman bằng phong cách thrashcore.[19] Trong cùng năm, Sonny Sharrock, Peter Brötzmann, Bill Laswell và Ronald Shannon Jackson thu âm album dưới tên Last Exit, một sự pha trộn giữa thrash metal và free jazz. Những sự phát triển này là nguồn gốc của jazzcore, một sự trộn lẫn free jazz và hardcore punk.

Từ thập niên 1990, những phong thái nhạc jazz có độ thông dụng gần bằng nhau và gần như không hoàn toàn có thể loại nào chiếm lợi thế. Mỗi nhạc công khác nhau chơi hoàn toàn có thể chơi nhiều biến thể jazz. Tay piano Brad Mehldau và bộ tam The Bad Plus lấy nhạc rock đương đại, đưa nó vào cái gốc piano jazz mộc truyền thống cuội nguồn ; họ còn làm lại ( cover ) những bài hát của những nghệ sĩ rock. The Bad Plus cũng phối hợp vài tác động ảnh hưởng không lấy phí jazz vào âm nhạc. Avant-garde jazz và không lấy phí jazz vẫn được duy trì bởi 1 số ít nhạc công như Greg Osby và Charles GayleMặt khác, thậm chí còn một ca sĩ như Harry Connick, Jr. ( người có mười album đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng jazz Mỹ ) đôi khi cũng được gọi là nhạc sĩ jazz, mặc dầu chỉ có vài yếu tố jazz trong chất nhạc thiên hướng pop của anh. Vài ca sĩ đạt thành công xuất sắc thương mại nhờ trộn lẫn jazz và pop / rock là Diana Krall, Norah Jones, Cassandra Stavrou Wilson, Kurt Elling và Jamie Cullum .

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *