Năng khiếu trí tuệ là khả năng trí tuệ cao hơn đáng kể so với trung bình. Đó là một đặc điểm của trẻ em, được xác định khác nhau, thúc đẩy sự khác biệt trong lập trình trường học. Nó được cho là tồn tại như một đặc điểm trong cuộc sống trưởng thành, với những hậu quả khác nhau được nghiên cứu trong các nghiên cứu dài hạn về năng khiếu trong thế kỷ qua. Không có định nghĩa chung về năng khiếu cho cả trẻ em và người lớn, nhưng hầu hết các quyết định sắp xếp trường học và hầu hết các nghiên cứu dài hạn trong suốt cuộc đời cá nhân đã theo những người có IQ trong 2,5% dân số hàng đầu, đó là IQ trên 130. Định nghĩa về năng khiếu cũng khác nhau giữa các nền văn hóa.

Các định nghĩa khác nhau về năng khiếu sở trường trí tuệ gồm có năng lực chung hoặc năng lực đơn cử. Ví dụ, theo 1 số ít định nghĩa, một người có năng khiếu sở trường trí tuệ hoàn toàn có thể có một kĩ năng điển hình nổi bật về toán học mà không có kỹ năng và kiến thức ngôn từ mạnh như nhau. Đặc biệt, mối quan hệ giữa năng lực thẩm mỹ và nghệ thuật hoặc năng lực âm nhạc và năng lực học tập cao thường tương quan đến điểm số IQ cao vẫn đang được tò mò, với 1 số ít tác giả coi tổng thể những hình thức năng lực cao đó là ” năng khiếu sở trường “, trong khi những tác giả khác phân biệt ” năng khiếu sở trường ” so với ” kĩ năng “. Vẫn còn nhiều tranh cãi và nhiều điều tra và nghiên cứu về chủ đề làm thế nào hiệu suất của người trưởng thành mở ra từ sự độc lạ về đặc thù thời thơ ấu, và những gì giáo dục và tương hỗ khác giúp tốt nhất cho sự tăng trưởng của năng khiếu sở trường người lớn .

Việc xác định năng khiếu lần đầu tiên xuất hiện sau khi phát triển các bài kiểm tra IQ cho vị trí trường học.[1][2][3] Nó đã trở thành một vấn đề quan trọng đối với các trường học, vì hướng dẫn của học sinh năng khiếu thường đưa ra những thách thức đặc biệt. Trong thế kỷ XX, trẻ em có năng khiếu thường được phân loại thông qua các bài kiểm tra IQ; các thủ tục nhận dạng khác đã được đề xuất nhưng chỉ được sử dụng trong một số ít trường hợp ở hầu hết các trường công lập trong thế giới nói tiếng Anh.[4][5][6] Phát triển các thủ tục nhận dạng hữu ích cho những học sinh có thể hưởng lợi từ chương trình học khó hơn là một vấn đề đang diễn ra trong quản lý trường học.[7][8]

Do vai trò chính của các chương trình giáo dục năng khiếu trong trường học trong việc xác định các cá nhân có năng khiếu, cả trẻ em và người lớn, nên đáng để xem xét cách các trường định nghĩa thuật ngữ “năng khiếu”.

Trong nhiều năm, những nhà tâm lý học và tâm lý học, theo bước chân của Lewis Terman năm 1916, đã đánh đồng năng khiếu sở trường với IQ cao. ” Di sản ” này sống sót cho đến thời nay, trong đó năng khiếu sở trường và IQ cao liên tục được đánh đồng trong 1 số ít ý niệm về năng khiếu sở trường. [ 9 ] Tuy nhiên, từ thời hạn đầu đó, những nhà nghiên cứu khác ( ví dụ Raymond Cattell, JP Guilford và Louis Leon Thurstone ) đã lập luận rằng trí tuệ không hề được bộc lộ theo cách đơn nhất như vậy, và đã gợi ý nhiều cách tiếp cận phong phú hơn cho trí mưu trí .

Nghiên cứu được thực hiện trong những năm 1980 và 1990 đã cung cấp dữ liệu hỗ trợ các khái niệm về nhiều thành phần cho trí thông minh. Điều này đặc biệt rõ ràng trong việc tái phân bổ “năng khiếu” của Sternberg và Davidson trong bộ sưu tập các bài viết của họ Khái niệm về năng khiếu (1986; ấn bản thứ hai 2005). Nhiều quan niệm khác nhau về năng khiếu được trình bày, mặc dù khác biệt, có liên quan đến nhau theo nhiều cách. Hầu hết các nhà điều tra xác định năng khiếu về nhiều phẩm chất, không phải tất cả đều là trí tuệ. Điểm số IQ thường được xem là thước đo không phù hợp về năng khiếu.[10] Động lực, khái niệm bản thân cao và sáng tạo là những phẩm chất quan trọng trong nhiều quan niệm mở rộng về năng khiếu này.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *