1. Khóa treble (Khoá bổng) (thuộc loại khóa Sol)
2. Khóa alto (thuộc loại khóa Đô)
3. Khóa tenor (thuộc loại khóa Đô)
4. Khóa bass (khoá trầm, thuộc loại khóa Fa)Bốn khóa nhạc thông dụng nhất : 1. Khóa treble ( Khoá bổng ) ( thuộc loại khóa Sol ) 2. Khóa alto ( thuộc loại khóa Đô ) 3. Khóa tenor ( thuộc loại khóa Đô ) 4. Khóa bass ( khoá trầm, thuộc loại khóa Fa )

Khóa nhạc (tiếng Pháp: clef, nghĩa là “cái chìa khóa”) là một ký hiệu trong soạn nhạc, dùng để biểu lộ cao độ của nốt nhạc được viết ra.[1][2][3] Khóa nhạc được đặt trên một trong các dòng kẻ tại đầu khuông nhạc, biểu thị tên và cao độ của nốt nhạc nằm trên dòng kẻ đó. Dòng này đóng vai trò cột mốc tham chiếu để dựa vào đó suy ra tên của các nốt nhạc nằm trên các dòng và khe còn lại của khuông nhạc.[4]

Có ba loại khóa nhạc dùng trong hệ thống ký hiệu nhạc hiện đại: F (khóa Fa), C (khóa Đô) và G (khóa Sol). Mỗi loại gắn với nốt nhạc tham chiếu của riêng mình (tức nốt nhạc nằm cùng dòng kẻ với khóa nhạc đó).[5]

Khóa nhạc Tên gọi Nốt tham chiếu Dòng kẻ
GClef.svg Khóa Sol (G-clef) G4 Xuyên qua khúc uốn cong của khóa nhạc
CClef.svg Khóa Đô (C-clef) C4 (Đô giữa) Xuyên qua phần giữa của khóa nhạc
FClef.svg Khóa Fa (F-clef) F3 Xuyên qua khoảng không giữa hai dấu chấm

Sử dụng ba loại khóa nhạc này sẽ cho phép người soạn nhạc có thể sáng tác cho tất cả các nhạc cụ và giọng hát, mặc dù chúng có cữ âm rất khác nhau (nghĩa là âm thanh do khóa này quy định có thể cao hơn hoặc thấp hơn nhiều so với khóa khác). Nếu không có ba loại khóa này mà chỉ dùng một loại thì sẽ gặp khó khăn bởi vì khuông nhạc hiện đại chỉ có năm dòng kẻ, mà số lượng cao độ do khuông nhạc này (kết hợp với các dòng kẻ phụ) tạo ra vẫn ít hơn so với số cao độ mà một dàn nhạc có thể tạo ra. Việc sử dụng các khóa nhạc khác nhau cho các nhạc cụ khác nhau và các giọng hát khác nhau sẽ cho phép nhạc sĩ có thể viết từng bè nhạc một cách thoải mái trên một khuông nhạc mà ít phải kẻ thêm nhiều dòng kẻ phụ. Khóa Sol thường dùng cho những bè nhạc chứa các nốt cao độ cao, khóa Đô dành cho bè chứa các nốt có cao độ tầm trung còn khóa Fa dành cho bè chứa các nốt cao độ thấp.[6] Trường hợp ngoại lệ là khi viết bè nhạc dành cho các nhạc cụ dịch âm (transposing instrument) bởi vì cao độ thể hiện trên bè nhạc cho chúng thường khác biệt so với cao độ thực của chúng, thường là khác nhau cả một quãng tám.

Bạn đang đọc: Khóa nhạc.

Vị trí trên khuông nhạc.

Về mặt triết lý, nhằm mục đích tạo tiền đề để sáng tác với những cự âm khác nhau thì hoàn toàn có thể đặt bất kể khóa nhạc nào lên bất kể dòng kẻ nào của khuông nhạc. Nếu đặt ở những dòng kẻ càng thấp thì cự âm càng cao ; ngược lại, đặt ở những dòng càng cao thì cự âm càng thấp .Do khuông nhạc có năm dòng kẻ nên khi phối hợp với ba khóa nhạc thì có vẻ sẽ cho ra 15 cách đặt khóa nhạc. Tuy nhiên, sáu cách trong số này là dư thừa. Ví dụ, khóa Sol đặt trên dòng kẻ thứ ba thì giống với khóa Đô đặt trên dòng kẻ thứ nhất, hoặc khóa Đô đặt trên dòng kẻ thứ năm thì tương tự khóa Fa đặt trên dòng kẻ thứ ba thông dụng hơn nhiều. Như vậy, chỉ còn chín cách đặt khóa nhạc. Tất cả những cách này đều đã Open trong lịch sử dân tộc : khóa Sol đặt ở dòng 1 và dòng 2, khóa Fa đặt ở dòng 3, 4 và 5, còn khóa Đô đặt ở bất kể dòng nào trừ dòng 5 ( bởi nguyên do đã nêu ở ví dụ trên ), cho nên vì thế khóa Đô còn được đặt biệt danh là ” khóa Đô khả động ” .Mỗi khóa nhạc lại có tên tuổi riêng địa thế căn cứ vào cự âm mà nó tương thích nhất .

Khóa Sol
1. Khóa vĩ cầm Pháp
2. Khóa treble
Khóa Đô
3. Khóa soprano
4. Khóa mezzo-soprano
5. Khóa alto
6. Khóa tenor
7. Khóa Đô baritone
Khóa Fa
8. Khóa Fa baritone
9. Khóa bass
10. Khóa sub-bass
7 và 8 là tương đương nhau.

Trong âm nhạc hiện đại thường chỉ dùng bốn loại khóa: khóa treble (treble clef, tiểu thể loại của khóa Sol), khóa bass (bass clef, tiểu thể loại của khóa Fa), khóa alto và khóa tenor (hai tiểu thể loại của khóa Đô). Trong số này, khóa treble và khóa bass là thông dụng hơn cả.

Diễn giải về những khóa nhạc.

Sau đây là list vừa đủ tổng thể những khóa nhạc kèm với list nhạc cụ và giọng hát được soạn với khóa đó. Mỗi khóa được vẽ tại vị trí tương ứng trên khuông nhạc, theo sau là nốt nhạc tham chiếu .

Khi khóa Sol (G-clef) được đặt tại dòng kẻ thứ hai của khuông nhạc, nó được gọi là khóa treble (treble clef). Đây là khóa phổ biến nhất ngày nay và là tiểu thể loại khóa Sol duy nhất còn sử dụng. Vì lý do này mà hai tên gọi thường được coi như đồng nghĩa. Theo truyền thống, người ta thường dùng khóa treble để ghi nhạc dành cho giọng kim, tiền dậy thì.

Các nhạc cụ được sáng tác nhạc với khóa treble là vĩ cầm, flute, ô-boa, bagpipe, kèn Anh, tổng thể những loại clarinet, tổng thể những loại saxophone, kèn cor, trumpet, cornet, vibraphone, mộc cầm, mandolin, recorder ; nó cũng thường được dùng cho euphonium, kèn baritone, và ghita ( có cao độ thấp hơn một quãng tám ). Khóa treble được dùng trong khuông nhạc trên của một khuông nhạc lớn trong đó dùng harp và nhạc cụ phím. Thỉnh thoảng nó được dùng song hành với khóa tenor cho những nốt cao nhất do những nhạc cụ như cello, contrabass ( có cao độ thấp hơn một quãng tám ), pha-gốt và trombone. Thỉnh thoảng viola cũg dùng khóa treble cho những nốt có cao độ rất cao. Khóa này dùng cho những giọng hát gồm soprano, mezzo-soprano, alto, contralto và tenor. Giọng tenor thấp hơn một quãng tám và thường được viết nhạc với khóa quãng tám ( xem phần dưới ) hoặc khóa treble kép .

Khóa vĩ cầm Pháp ( lỗi thời ).

Khi khóa Sol được đặt trên dòng thứ nhất của khuông nhạc thì nó được gọi là khóa vĩ cầm Pháp (French violin clef), vì vào thế kỷ thứ 17 và 18 nó được các nhạc sĩ người Pháp dùng để ghi các bản nhạc soạn cho vĩ cầm hoặc flute.[2] Nó giống với khóa Fa được dịch giọng thêm hai quãng tám.

Khóa bass.

Khóa bass (trợ giúp·thông tin)Gam âm nguyên ở C, khóa bass .

Khi đặt khóa Fa (F-clef) ở dòng thứ tư của khuông nhạc thì nó có tên là khóa bass (bass clef).[2] Đây là tiểu thể loại khóa Fa duy nhất còn dùng, vì vậy hai tên gọi thường được coi như đồng nghĩa.

Khóa này dùng khi soạn nhạc cho euphonium, contrabass, guitar bass, pha-gốt, contrabassoon, trombone, kèn baritone, [7] Nhạc dành cho giọng tenor thì dùng khóa bass khi tenor và bass cùng chung một khuông nhạc. Khóa bass là khóa nhạc của khuông nhạc cuối cùng trong một khuông nhạc lớn dành cho harp và nhạc cụ phím. Contrabassoon, double bass, electric bass có âm thanh thấp hơn một quãng tám so với cao độ được viết trong bản nhạc, nhưng không có ký hiệu nào để lưu ý điều này; tuy nhiên một số nhà soạn nhạc/nhà xuất bản thêm ký hiệu “8” bên dưới khóa nhạc ở bè nhạc dành cho các nhạc cụ này trong bản tổng phổ nhằm phân biệt chúng với các nhạc cụ có âm thanh bình thường khác (xem mục Khóa quãng tám ở bên dưới).
Khóa này dùng khi soạn nhạc cho cello tuba và trống định âm. Nhà soạn nhạc cũng dùng nó cho những nốt có cao độ thấp nhất khi sáng tác cho kèn, hay khi sáng tác cho những giọng baritone và bass. Nhạc dành cho giọng tenor thì dùng khóa bass khi tenor và bass cùng chung một khuông nhạc. Khóa bass là khóa nhạc của khuông nhạc sau cuối trong một khuông nhạc lớn dành cho harp và nhạc cụ phím. Contrabassoon, double bass, electric bass có âm thanh thấp hơn một quãng tám so với cao độ được viết trong bản nhạc, nhưng không có ký hiệu nào để quan tâm điều này ; tuy nhiên một số ít nhà soạn nhạc / nhà xuất bản thêm ký hiệu ” 8 ” bên dưới khóa nhạc ở bè nhạc dành cho những nhạc cụ này trong bản tổng phổ nhằm mục đích phân biệt chúng với những nhạc cụ có âm thanh thông thường khác ( xem mục Khóa quãng tám ở bên dưới ) .
Khi đặt khóa Fa ở dòng thứ ba của khuông nhạc thì nó có tên là khóa baritone .Khóa này dùng cho bè nhạc tay trái của nhạc cụ phím ( đặt biệt là ở Pháp ) cũng như bè dành cho giọng baritone .Khóa baritone có một biến thể dưới dạng khóa Đô đặt ở dòng kẻ thứ năm ; loại này ít phổ cập .
Khi đặt khóa fa trên dòng kẻ thứ năm thì nó có tên gọi là khóa sub-bass. Khóa này tương tự với khóa treble bị dịch giọng xuống hai quãng tám .

Ockeghem và Heinrich Schütz dùng khóa sub-bass để soạn những đoạn bass thấp, xuất hiện khá muộn trong tác phẩm Musikalisches Opfer của Bach.

Khóa tenor

.

Khóa tenor (trợ giúp·thông tin)Gam âm nguyên ở C, khóa tenor .Khi đặt khóa Đô tại dòng thứ tư của khuông nhạc thì nó có tên là khóa tenor. [ 2 ]Khóa này được dùng khi soạn nhạc cho những bè có cao độ cao cho pha-gốt, cello, euphonium, contrabass và trombone. Những nhạc cụ này dùng khóa bass cho những quãng âm từ thấp đến trung và cũng có dùng khóa treble cho bè cao độ cao. Khi dùng cho double bass thì âm thành thấp hơn một quãng tám so với cao độ được viết trên bản nhạc. Những bè nhạc dành cho vĩ cầm tenor cũng được viết với khóa này ( ví dụ Op. 11 của Giovanni Battista Vitali ). Trong những bản nhạc có lời trước kia, khóa này dùng trong bè nhạc dành cho giọng tenor nhưng đã bị sửa chữa thay thế bởi người ta chuyển sang dùng khóa treble quãng tám khi viết riêng hoặc dùng khóa bass khi phối hợp chung một khuông nhạc với bè nhạc dành cho giọng bass .

Khi đặt khóa Đô lên dòng kẻ thứ năm, nó có tên gọi là khóa baritone [ 10 ], tương tự với khóa Fa đặt trên dòng thứ ba thông dụng hơn nhiều .

Khi đặt khóa Đô lên dòng kẻ thứ hai, nó có tên là khóa mezzo-soprano. [ 2 ]

Khi đặt khóa Đô lên dòng thứ nhất, nó có tên là khóa soprano. [ 2 ]Khóa này được dùng cho bè nhạc dành cho nhạc cụ phím ( đặt biệt là ở Pháp ) cũng như bè nhạc dành cho giọng soprano trong những bản nhạc có lời. [ 11 ]

Các khóa nhạc khác.

Khóa quãng tám.

Ba loại khóa dưới quãng tám biểu lộ nốt Đô giữa (trợ giúp·thông tin)Gam âm nguyên ở C, khóa ” sopranino ( cao hơn một quãng tám so với khóa treble không ghi kèm số 8 )Bắt đầu từ thế kỷ 18, khóa treble được dùng cho những nhạc cụ phát âm có âm thanh thấp hơn một quãng tám, ví dụ điển hình đàn ghita và cũng được dùng trong nhạc dành cho giọng tenor. Nhằm tránh lẫn lộn, người ta tạo thêm những loại khóa biến thể để đôi lúc dùng, đặc biệt quan trọng là khi soạn nhạc hợp xướng .

Thường thấy khóa quãng tám (octave clef) ở những bè nhạc dành cho giọng tenor trong nhạc phổ dành cho bốn giọng SATB, trong đó người sáng tác ghi thêm một chữ số “8” ở bên dưới khóa treble nhằm chỉ rõ rằng cao độ các nốt khi biểu diễn sẽ thấp hơn một quãng tám so với nốt nhạc được viết trong bản nhạc. Do loại khóa tenor đúng nghĩa đã mất dần khỏi thói quen sáng tác nhạc có lời, vì thế loại khóa treble “hạ xuống một quãng tám” cũng hay được gọi bằng danh xưng “khóa tenor”. Thỉnh thoảng thấy khóa này xuất hiện trong nhạc sáng tác cho đàn mandolin quãng tám. Trong một số bản nhạc tổng phổ, người ta còn dùng ký hiệu hai khóa treble xếp chồng một phần lên nhau, cũng với ý nghĩa trên.

Khóa quãng tám cũng dùng khi viết nhạc cho piccolo, penny whistle, recorder và các nhạc cụ hơi gỗ khác.

Khóa Fa cũng phối hợp được với số 8 để ký hiệu rằng âm thanh thấp hơn một quãng tám. Loại khóa nhạc biến thể này dùng với nhạc cụ contrabass như double bass và contrabassoon. Khóa Fa loại ghi âm thanh cao hơn một quãng tám thì được dùng với bass recorder. Tuy vậy, cả hai loại này đều cực kỳ hiếm. Bình thường vì khóa Fa loại bass quá phổ dụng nên nghệ sĩ tinh chỉnh và điều khiển nhạc cụ và ca sĩ có giọng vượt ngoài cao độ khuông nhạc thì sẽ ghi nhớ số dòng kẻ phụ thiết yếu phải kẻ để viết những nốt nhạc vượt ra ngoài đó. Trong trường hợp nốt nhạc nằm vượt quá xa bên ngoài thì người ta đổi khóa nhạc sang khóa treble hoặc ghi chú hạ một quãng tám xuống .

Khóa trung tính.

Khóa trung tính (neutral clef) hay khóa bộ gõ (percussion clef) không phải là một loại khóa nhạc như khóa Sol, khóa Fa và khóa Đô. Đây đơn giản chỉ là một quy ước nói rằng các dòng kẻ và khe nhạc trong khuông nhạc được gán cho một nhạc cụ bộ gõ mà không kèm cao độ chính xác, nghĩa là chúng không được chuẩn hóa (trừ một số ngoại lệ), vì thế khi sáng tác thì phải ghi chú thích để lưu ý người đọc biết phải chơi nhạc thế nào. Những nhạc cụ gõ nào đã nhận dạng được cao độ thì không dùng khóa trung tính. Một số nhạc cụ cũng thuộc bộ gõ như trống định âm (soạn nhạc với khóa bass) và mallet percussion (soạn nhạc với khóa treble hoặc với khuông nhạc lớn) thường được ký nhạc trên các khuông nhạc khác nhau thay vì ký nhạc trên khuông nhạc không được chuẩn hóa cao độ nói trên.

Các khuông nhạc dùng khóa trung tính thì không phải khi nào cũng có năm dòng kẻ. Rất thường thấy những khuông loại này chỉ có một dòng kẻ .Khóa trung tính đôi lúc dùng với những nhạc cụ không thuộc bộ gõ nhưng được chơi theo những kỹ thuật không rõ cao độ, ví dụ điển hình đập vào thân đàn vĩ cầm, violoncello hoặc ghita acoustic, hoặc là khi dàn hợp xuống bị nhu yếu phải vỗ tay, giậm chân ; tuy thế, những giai điệu kiểu này thường ghi dưới dạng những dấu X trong khuông nhạc thông thường của nhạc cụ, phía trên có chua thêm chú thích để cho biết phải làm gì để tạo ra nhịp điệu tương thích .

Viết văn bản nhạc theo ngón tay.

tablature) và ký nhạc theo nốt. (trợ giúp·thông tin)Gam âm nguyên ở C với hai cách ký nhạc cho đàn ghita : ký nhạc theo ngón tay ( ) và ký nhạc theo nốt .

Đối với ghita và các nhạc cụ dây có fret (gợn ngang nằm sau dây đàn) khác thì có một cách ghi nhạc là ghi theo ngón tay (tablature) thay vì ghi theo nốt nhạc. Trường hợp này người ta ghi chú một ký hiệu TAB thay vì dùng khóa nhạc. Số dòng kẻ trong khuông không nhất thiết phải là năm dòng: mỗi dòng ứng với một dây của nhạc cụ (vì thế, nếu là ghita sáu dây tiêu chuẩn thì khuông nhạc để ghi nhạc cho nhạc cụ này sẽ có sáu dòng kẻ). Những chữ số ghi trên các dòng kẻ sẽ cho biết cần dùng fret nào với dây đàn nào. Ký hiệu TAB này cũng giống với khóa bộ gõ ở chỗ, nó không phải là một khóa nhạc đúng nghĩa mà là một ký hiệu dùng thay cho khóa nhạc.

Thuở đầu thay vì dùng ký hiệu khóa nhạc thì người ta dùng một đường thẳng tham chiếu trên đó ghi chữ cái tương ứng với tên nốt nhạc tham chiếu: Fa (F) và Đô (C), hiếm hơn là Sol (G). Đây là những ký hiệu hay dùng nhất trong các bản nhạc bình ca Gregoriano. Theo thời gian những chữ cái này được trang trí trông kiểu cách hơn và biến thành các ký hiệu khóa nhạc như nay vẫn thấy.

Xem thêm: Khuông nhạc.

Tham khảo và ghi chú.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *